Giới khảo cổ về Đông Nam Á trên thế giới không ai không biết đến công trình của Madeleine Colani. Bà khám phá ra rất nhiều di tích khảo cổ tại bắc Đông Dương thuộc Pháp vào nửa đầu thế kỷ 20. Trong công trình đồ sộ của bà, đặc biệt phải kể đến những kết quả khảo cổ cực kỳ quan trọng của những khai quật ở Hoà Bình, Sa Huỳnh, và ở Ban Ang bên Lào. Hai nền văn hóa tiền sử mới Hoà Bình và Sa Huỳnh là hai địa điềm được bà khai quật và nghiên cứu trên đất Việt. Hai địa danh này sau đó được ngành khảo cổ thế giới dùng để chỉ các di tích tiền sử có đặc trưng của hai nền văn hóa này (như các loại và kiểu đồ người tiền sử làm, cách thức họ chôn người chết…). Văn hóa Hòa Bình là văn hóa của người tiền sử sống trong vùng Đông Nam Á vào cuối thời đồ đá cũ. Sau phát hiện của bà Colani, di tích loại Hòa Bình được giới khảo cổ tìm thấy rải rác khắp Đông Nam Á lục địa.
Vài nhà khoa học cho rằng văn hóa này còn dấu vết lan truyền đến các đảo Nhật Bản và Úc Châu. Cánh đồng Ban Ang ở Bắc Lào, nơi bà tìm thấy các chum tiền sử khổng lồ, bây giờ gọi là “Cánh đồng Chum”. Địa danh này nổi tiếng thế giới trong chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, vì là nơi xảy ra những trận đánh lớn giữa quân Pathet Lào và quân Hoàng Gia Lào. Ngày nay Cánh Đồng Chum là một trong những địa điểm du khách quốc tế thường viếng tại Lào.
Từ Pháp đến Bắc Việt
Madeleine Coloni sinh năm 1866 tại Strasbourg (Đông Bắc Pháp) trong một gia đình theo đạo Tin Lành. Bà có ba anh em, tên André, Jeanne, và Léonore, tất cả đều học hành cao (André và Jeanne là giáo sư ). Theo gia phả tông chi, gia đình này không có hậu duệ.
Hình như người nào trong gia đình cũng đeo đuổi một lý tưởng sống nào đó nên không ai lập gia đình. Bà (Madeleine) và em gái Léonore sang Việt Nam và hiến cả cuộc đời mình cho việc khai phá giai đoạn tiền sử Đông Dương. Tuy gia phả ghi rất giản dị về bà (và cô em) : nhà thám hiểm tại Bắc kỳ -exploratrice au Tonkin – , công trình bà để lại cho ngành khảo cổ Đông Nam Á thật lớn lao.
Tại Hội Nghị Tiền Sử Viễn Đông Lần thứ Nhất tại Hà Nội tháng giêng năm 1932 (hội nghị đầu tiên về khảo cổ trên đất Việt Nam), bà đã trình bày đầy đủ bằng chứng sự hiện diện một nền văn hóa cổ không giống những văn hóa tiền sử biết đến trước đó trên thế giới. Bà nổi danh trên thế giới từ đó qua sự chính thức công nhận nền văn hóa Hòa Bình tại hội nghị này.
Hơn nửa thế kỉ sau, bà được vinh danh qua Hội nghị các nhà khảo cổ thế giới kỷ niệm 60 năm công trình về văn hóa Hoà Bình của bà -THE HOABINHIAN 60 YEARS AFTER MADELEINE COLANI: ANNIVERSARY CONFERENCE- tổ chức cuối năm 1993 tại Hà Nội.
Madeleine Colani sang Việt Nam làm việc tại Phòng điạ chất và dạy vạn vật vào năm 33 tuổi. Bà học thêm và lấy được bằng tiến sĩ thực vật cổ (paleobotanist) năm 54 tuổi với luận án về vi sinh vật biển hoá thạch Fusulinidae. Sau đó bà cộng tác với ông Henry Mansuy, nhà khảo cổ nổi tiếng của Trường Viễn Đông Bác Cổ (TVĐBC). Ông Mansuy tìm ra trước đó (từ năm 1906) nhiều đồ bằng đá mài và đồ gốm cổ 5000 năm trong vùng Bắc Sơn (tỉnh Lạng Sơn).Một khám phá quan trọng cho Đông Dương.
Trường Viễn Đông Bác Cổ được Pháp lập ra năm 1900 nhằm tranh đua với các cường quốc thuộc địa khác trong lãnh vực khảo cổ, một lãnh vực được dân Âu Châu rất ưa chuộng từ thế kỷ 19 cho đến nay (gần như cùng một lúc, hai cường quốc Anh và Hòa Lan lập những cơ quan khảo cổ tương tự tại thuộc địa Á châu của họ : Archaeological Survey of India, Commissie in Nederlandsch- Indie voor Oudheidkundig Onderzoek. Gọi là trường nhưng nhân viên chỉ lo việc nghiên cứu khảo cổ, phân loại, bảo quản đồ khai quật được, và trùng tu đền đài cổ tại Đông Dương.
Cho đến đầu thế kỷ hai mươi, các cường quốc Âu Mỹ quan niệm rằng văn minh cổ Đông Á chỉ có ở An Độ và Trung Hoa, còn những dân tộc Đông Á khác đều lạc hậu, chỉ biết bắt chước theo kiểu mẫu An-Hoa. Ngay cả khi Tây phương biết đến trống đồng Ngọc Lũ (do chính dân làng Ngọc Lũ tìm ra từ cuối thế kỷ 19 và đem về đình làng thờ) và những đồ đồng cổ tuyệt xảo khác, họ cũng không tin cư dân cổ trong vùng có thể “văn minh” đến mức tự mình sáng chế ra được trống, mà chỉ có thể bắt chước dân Trung Hoa, hay …dân đông nam Âu Châu (theo Heine Geldern). Tính cách bản địa của văn minh Đông Sơn chỉ được chấp nhận sau này, nhờ những khám phá kể từ 1954 đến nay của ngành khảo cổ Việt Nam.
Văn Hóa Hòa Bình : một khám phá cực kỳ quan trọng
Công lớn của bà Colani là tìm thấy thật nhiều di vật khảo cổ, đủ nhiều để sắp xếp, phân loại chúng và lập luận thuyết phục khảo cổ học thế giới rằng cư dân cổ bắc Việt có một nền văn hóa Hòa Bình riêng biệt so với các nền văn hóa thế giới khác.
Vừa vào ngành khảo cổ, cùng Mansuy bà viết ngay một bài báo về một số lượng lớn sọ rất cổ tìm thấy ở Làng Cườm (Bắc Sơn) năm 1925. Bài này và nhất là bài báo đầu tiên chỉ mang tên bà về di chỉ Hoà Bình trong tạp chí “Anthropologie” năm 1926, chứng tỏ bà là một nhà khảo cổ lớn.
Năm 1923, bà cùng những người hướng dẫn địa phương khám phá ra một số lượng rất lớn di cốt người và dụng cụ bằng đá, trong một hang đá vôi thuộc tỉnh Hòa Bình. Bà cho chở về Hà Nội hơn bốn mươi giỏ to. Vừa thấy Colani với số lượng chưa từng thấy đồ vật cổ, Mansuy đã vội vã kết án bà là “Tomb raider” (kẻ cướp mồ). Dù số ” đồ cổ ” văn hóa Hòa Bình này chỉ là xương và đá, không phải vàng- bạc- đá quý ! Hơn nữa, bà làm việc với tư cách nghiêm túc của nhà khảo cổ : khảo sát, ghi chép, rồi mang về nộp cho TVĐBC. Trong mấy năm liền sau đó, bà liên tục khám phá thêm mười hai hang động trong vùng Hòa Bình, khai quật được một số lượng di vật hiếm thấy. Sau khi phân tích chúng và so sánh liên hệ với đồ đá tìm thấy trong vùng núi Bắc Sơn, bà đề nghị xem toàn thể những di vật đặc biệt bằng đá cuội (với đặc điểm là chỉ được đẽo ở lưỡi hay rìa) là của cùng một nền văn hóa, văn hóa Hòa Bình hay Hoabinhien (tiếng Anh là Hoabinhian).
Bà chia văn hóa tiền sử này thành ba giai đoạn. Giai đoạn xưa nhất bắt đầu vào cuối thời đố đá cũ. Giai đoạn thứ ba nằm vào đầu thời đố đá mới. Ngành khảo cổ Việt Nam căn cứ vào những kết quả thu thập được sau thời Pháp thuộc để thẩm định thời gian tồn tại của văn hóa này tại Việt Nam vào khoảng mười tám ngàn năm đến bảy ngàn năm trăm năm trước ngày nay. Văn hóa Hoà Bình là văn hóa của người khôn ngoan Homo sapiens . Họ cùng giống với người ngày nay và cũng thông minh như họ. Nhưng vào thời tiền sử xa xưa, vốn kỹ thuật con người tích tụ ít ỏi, nên cuộc sống họ còn thô sơ. Người khôn ngoan buổi đầu ẩn trú trong hang động và dưới mái đá bên sườn núi hay sống ngoài trời. Họ sống bằng thú săn, hái rau trái, đào các loại củ ăn được. Họ biết chế dụng cụ bằng đá và gây lửa từ những thức chất có sẵn trong thiên nhiên. Lửa dùng nấu thức ăn, và dụng cụ đá dùng trong việc tìm thức ăn cũng như trong đời sống hàng ngày. Vết tích tro rác của bếp lửa và dụng cụ bằng đá hay bằng xương để lại là những di vật quý giá chứng minh sự hiện hữu của người tiền sử, đồng thời cho phép người ta tìm hiểu đời sống cổ tại nơi ấy.
Các nhà khảo cổ trên thế giới tìm được tại nhiều nước Á Đông khác những văn hóa cổ có cùng đặc điểm với dụng cụ đá tìm thấy ở Hòa Bình. Theo thông lệ trong ngành khảo cổ, người ta dùng địa danh của nơi đầu tiên tìm thấy các dụng cụ đá đặc biệt để đặt tên cho mỗi loại văn hóa cổ thời đồ đá cũ và xếp vào cùng loại « văn hoá » ấy những di tích tương tự có cùng đặc điểm tìm được về sau tại các địa điểm khác. Vì vậy “văn hóa Hòa Bình” được xem như phân bố rộng khắp vùng Đông Nam Á, và là văn hóa tượng trưng cho « kĩ thuật sinh sống » của tổ tiên dân Đông Nam Á vào thời tiền sử trong môi trường sinh thái vùng này lúc đó. Địa điểm văn hóa Hòa Bình tại Việt Nam hầu hết đều ở miền Bắc, trong các hang động vùng núi đá vôi (karst). Ngoài ra người ta còn thấy chúng ở nam Trung Hoa, Thái Lan, Mã Lai và đông Sumatra (Indonesia). Theo một số người, “văn hóa Hòa Bình” cũng có mặt tại những địa diểm xa phía bắc như Nhật Bản, hay phía nam như Úc châu, nhưng giả thuyết này không được nhiều người đồng ý. Vì tuy có cùng “cái lõi văn hóa Hòa Bình “, những cư dân tại các địa điểm khác nhau có những truyền thống riêng (thí dụ các dụng cụ với số lượng và thể loại tương đối khác nhau). Người ta có thể nói những cư dân ấy cùng gốc, nhưng không thể nói các người cổ các vùng khác nhau đều đến từ vùng Hòa Bình. Nói khác đi, Hòa Bình không phải là cái ” rốn ” hay « nôi » của Đông Nam Á cổ. Các nhà khảo cổ thế giới tại Hội Nghị “Hoabinhian 60 năm sau” đề nghị dùng từ ” văn hóa Hoà Bình” trong nghĩa techno-complex, tập hợp những dụng cụ có cùng một kĩ thuật, chứ không hàm ý nguồn gốc ở Hòa Bình.
Đặc điểm văn hóa Hòa Bình là dụng cụ đá cuội đẽo tương đối thô sơ. Cuội là những hòn đá trên núi bị nước lũ cuốn đi, va chạm, chà xát lẫn nhau trong lòng sông làm vỡ nhỏ ra và các góc cạnh bị mài mòn. Cuội thường hình tròn, dẹp hay bầu dục; bề mặt nhẵn tự nhiên của cuội được gọi là vỏ cuội. Người cổ Hòa Bình nhặt cuội lòng sông hay trên bờ và chọn một số lượng vừa đủ những hòn cuội có hình dạng và cỡ lớn thích hợp với thứ dụng cụ theo ý muốn. Họ chỉ đẽo một đầu hay một bên rìa cuội để có cạnh sắc và tận dụng nguyên trạng phần vỏ cuội nhẵn mòn tự nhiên. Các nhà khảo cổ đã thử nghiệm đẽo cuội hầu tìm hiểu kỹ thuật người xưa. Kỹ thuật đẽo đá có chung một nguyên tắc : người ta dùng một hòn đá thứ hai đánh lên cạnh hòn đá muốn đẽo (đá cuội hay đá lửa). Tùy theo loại đá, sức đánh, cách đánh và chỗ đánh …, hòn cuội vỡ theo một hình nhất định. Với cách đẽo theo một thủ thuật và thứ tự định trước trong đầu, người cổ làm ra nhiều dụng cụ lớn nhỏ với các dáng dạng và cạnh bén khác nhau tuỳ theo những sử dụng cần thiết cho cuộc sống. Vì dụng cụ Hòa Bình không được gọt đẽo công phu, như thể chỉ cần vừa đủ xài, người Hòa Bình có lẽ sản xuất dụng cụ rất nhanh. Để chứng minh điều này, một nhà khảo cổ Thái Lan đã biễu diễn chế tạo dụng cụ cuội cấp kỳ bằng vài nhát đẽo trước cử tọa “ Hội Nghị Hoabinhian 60 năm sau Colani ”.
Đa số dụng cụ văn hóa Hòa Bình chỉ được đẽo trên một mặt, mặt bên kia còn nguyên vỏ cuội. Tuy nhiên tại một số địa điểm Bắc Việt Nam và trên bán đảo Mã Lai có dụng cụ đá cuội đẽo hai mặt công phu hơn. Những dụng cụ đá gọi là choppers/ chopping tools này có dáng vẻ thô sơ hơn nhiều so với dụng cụ đẽo tinh xảo của người khôn ngoan phương Tây cùng thời. Từ điểm này một số nhà khoa học, như ông Movius người Mỹ, đã đặt thuyết vùng Đông Nam Á lạc hậu trì trệ, và người cổ Đông Nam Á kém tiến hóa so với người cổ phía Tây. Ông này vẽ trên bản đồ đường ranh Movius chia thế giới cổ thành một bên tiến bộ và một bên lạc hậu. Quan điểm này tồn tại đến giữa thế kỷ 20.
Nhưng vào thập niên 60 các khám phá khảo cổ chấn động thế giới tại Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines, các đảo nam Thái Bình Dương khiến các nhà tiền sử học đặt lại vấn đề tiền sử Đông Nam Á. Trước hết, nhà khảo cổ Úc Gorman tìm thấy tại hang Ma (Spirit Cave, Thái Lan) những dấu hiệu cho thấy người thuộc văn hóa Hòa Bình đã bắt đầu trồng trọt bầu bí sớm hơn bất cứ nơi nào khác trên thế giới (hơn mười một ngàn năm trước). Với những khám phá mới và cái nhìn tổng quát, càng ngày càng có nhiều nhà khảo cổ bác bỏ thuyết Đông Nam Á tiền sử lạc hậu. Nhiều người còn đi rất xa trong hướng ngược lại, chủ trương Đông Nam Á đã đi trước phương Tây trong việc trồng trọt, đóng thuyền, đi biển xa, làm đồ gốm, đúc đồng thau. Solheim II (giáo sư đại học Hawaii) là người tiên phuông trong việc này.
Theo Solheim II, giai đoạn sớm văn hóa Hòa Bình bắt đầu năm mươi ngàn năm trước, và giai đoạn muộn, theo Gorman, kéo dài đến ba ngàn năm trăm năm trước ngày nay. Và chủ nhân văn hóa này là gnhững người đầu tiên biết trồng trọt, đúc đồ kim loại, đóng thuyền đi biển, đem văn hóa họ đến bắc Trung Hoa, Nhật Bản, Philippines…Mô hình tiền sử của Solheim II tái lập danh dự cho tổ tiên người Đông Nam Á, nhưng có người trách luận điểm của ông thiếu cơ sở vững chắc. Gần đây, ông Oppenheimer dùng cách tiếp cập đa ngành và thêm một số kết quả mới để chứng minh người cổ Đông Nam Á văn minh sớm hơn nơi khác, và đã đem văn hóa họ vào một vùng lớn lục địa và hải đảo, đến tận trời Tây. Theo ông, nạn biển dâng cao vào khoảng mươi ngàn năm trước, nhận chìm xuống biển phần đất rộng lớn nơi họ sống, là động cơ thúc đẩy họ phải thích ứng với việc dùng thuyền đi xa. Dù ông không nói đó là công trình của chủ nhân văn hóa Hòa Bình, luận điểm “ người tiền sử Đông Nam Á kém tiến hóa vì dụng cụ đá đẽo kiểu Hòa Bình của họ thô sơ ” ngày nay không còn thuyết phục ai. Có lẽ triết lý của người tiền sử Đông Nam Á là không cần bỏ công sức thì giờ gọt đẽo tỉ mỉ dụng cụ đá nếu cuộc sống không đòi hỏi. Ngược lại, có nhiều khả năng họ đã biết làm và dùng dụng cụ tre, gỗ, mây, dây, lá rừng, là những nguyên liệu dồi dào nơi họ sống, một môi trường sinh thái giàu thực vật và động vật đủ loại (rừng mưa nhiệt đới).
Cũng nên biết nhiều nền văn hóa của người khôn ngoan nối tiếp nhau trên đất Bắc Việt trong thời tiền sử : trước văn hóa Hòa Bình có văn hóa Sơn Vi, và tiếp nối có văn hóa Bắc Sơn. Văn hóa Bắc Sơn có mặt gần như song song với giai đoạn trể văn hóa Hoà Bình, và được phát hiện trước văn hóa Hòa Bình (đầu thế kỷ hai mươi) trong vùng cực bắc Việt Nam (vùng Lạng Sơn). Bà Colani và ông Mansuy (những người khám phá) xem văn hóa Bắc Sơn như là một văn hóa hình thành do sự pha trộn văn hóa cổ tại chỗ với văn hóa cao hơn do di dân nơi khác mang vào Bắc Việt, trong khi giới khảo cổ Việt Nam xem văn hóa này là văn hóa bản địa với các yếu tố văn hóa Hòa Bình và thêm kỹ thuật mài ở lưỡi dụng cụ đá cuội. Văn hóa Bắc Sơn như vậy tiến bộ hơn văn hóa Hòa Bình : rìu đá có lưỡi mài nhẵn hiệu quả nhiều hơn rìu đẽo thô trong việc đốn cây, mở đầu cho việc trồng trọt.
Một điều đáng chú ý của di chỉ hai văn hóa cổ này, là sự có mặt của rất nhiều vỏ ốc núi, ốc suối trong đống rác bếp tiền sử. Điều đó chứng tỏ người cổ tại đấy hay ăn ốc, như người Việt ngày nay. Hai chị em bà Colani cũng có công tìm được dấu mỹ thuật trong di vật cư dân cổ Hòa Bình – Bắc Sơn, như vỏ ốc biển mài thủng lưng có thể xâu dây đeo làm trang sức, đá phiến hay đá cuội to có khía vạch song song (ở Phố Bình Gia). Trong văn hóa Bắc Sơn, bà Colani tìm thấy tại hang Nghinh Tắc một phiến đất sét vàng mịn có trang trí với mười lăm nhóm vạch trên mặt và bên rìa ; bà tìm được tại Nà Ca một phiến đá trang trí hai mặt những đường cong chia nhánh, cùng một hòn cuội khắc đầu người với tai mắt, mũi, miệng, cằm, cổ, và tại động Ky, một phiến đá một mặt trang trí nhiều hình kỷ hà, mặt kia khắc một mặt người. Trong hang Đồng Nội, ngoài những mảnh gốm thô có trang trí, bà khám phá bốn hình khắc sâu trên vách hang. Đó là những mặt người có đủ mắt mũi miệng, đặc biệt trên đỉnh đầu có vẽ một nhánh thẳng lên và chia thành hai nhánh cong ra ngoài, trông giống như người đội sừng. Đó là hầu hết những biểu tượng mỹ thuật người ta biết đến ngày nay trong hai nền văn hóa cổ này.
Những năm gần đây có thêm nhiều công trình khai quật quy mô hơn nhờ sự hợp tác quốc tế (với Toyota Foundation, với Anh, Đức…). Một phần kết quả hợp tác khảo cổ Việt- Đức vừa được công bố trong một cuốn sách độc đáo : “Neue Entdeckungen zur Sa Huynh- Kultur”, hay “Những phát hiện mới về văn hóa Sa Huỳnh” – Gò Mả Vôi (Lindensoft, ISBN 3-929290-27-8, 2002). Đây là cuốn sách song ngữ về văn hóa Sa Huỳnh độc nhất từ trước đến nay. Đồng tác giả là ba nhà khảo cổ Andreas Reinecker, Nguyễn Chiều và Lâm thị Mỹ Dung đã cùng khai quật địa điểm Gò Mả Vôi bên bờ sông Thu Bồn (gần Hội An). Cuốn sách đáng được cộng đồng người Việt chú ý, vì ngoài những tư liệu quý giá với hình ảnh màu rõ ràng, sách do tiến sĩ Reinecker viết bằng hai thứ tiếng Việt- Đức, ông Reinecker chuyên gia khảo cổ Đông Nam Á trẻ và thông thạo tiếng Việt khai quật nhiều nơi tại Việt Nam từ mười năm nay, và tiến sĩ Mỹ Dung, khảo cổ gia có nhiều đóng góp cho tiền sử nước Việt.
Trong các chum táng người chết, người ta thường tìm được đồ tùy táng bằng kim loại, đồ gốm, và rất nhiều đồ trang sức. Các món trang sức này là những hoa tai thật đẹp (như khuyên tai hai đầu thú) làm bằng nhiều loại đá quý và bằng thuỷ tinh, đặc trưng của văn hóa Sa Huỳnh. Người ta mới tìm được trong những chum to tại Lai Nghi (tỉnh Quảng Nam, gần Hội An) nhiều di vật đặc sắc chưa từng thấy trong các mộ chum. Đó là những xương chưa huỷ nát, rất hiếm thấy trong hơn ngàn mộ chum tìm được đến nay. Đó là những hạt gạo cháy, một đôi khuyên tai bằng vàng, một hạt mã não khắc thành hình con chim nước và hơn ba ngàn hạt chuỗi đủ loại.
Tiến sĩ Mỹ Dung nhận xét như sau về những đồ trang sức độc đáo này :
“Theo như biểu tượng của thế giới, con chim nước tượng trưng cho mặt trời. Chẳng hạn hiện vật hình con chim ở khu vực mộ chum hậu kỳ thời đại đồ đồng vùng sông Danube ở châu Âu. Hạt chuỗi mã não duy nhất ở Đông Nam Á tìm thấy ở Thái Lan có hình con sư tử. Từ trước đến nay, trong các mộ táng khai quật được, chúng tôi chỉ phát hiện những hạt mã não hình chuỗi bình thường. Mã não mang hình dạng con vật thì chưa bao giờ tìm thấy”
….”Từ xưa đến nay người ta vẫn cho rằng nghề thuỷ tinh rất phát triển trong thời kỳ văn hóa Sa Huỳnh. Nhưng phát triển ở mức độ cao như vậy thì thật đáng kinh ngạc.”
Thật vậy, người Sa Huỳnh có thể hãnh diện về tài sáng tạo đồ trang sức bằng thuỷ tinh của họ. Đồ trang sức xưa nay vẫn được buôn bán, trao đổi. Cho nên khuyên tai, vòng tay đặc trưng của văn hóa này đều được tìm thấy nhiều nơi khác như Phi Luật Tân, Đài Loan…. Riêng hạt chuỗi, tính đặc trưng khó thấy hơn, nên có người căn cứ vào khả năng làm hạt chuỗi thuỷ tinh thủ công ngày nay và trong lịch sử để kết luận là hạt chuỗi cổ được đưa đến Việt Nam từ Đông An Độ.
Nhưng một cục thuỷ tinh nguyên liệu tìm thấy trong mộ chum Lai Nghi đưa đến giả thuyết đồ trang sức thuỷ tinh được làm ngay tại chỗ : nghĩa là trong văn hóa Sa Huỳnh, chứ không phải từ nơi khác đem vào. Căn cứ vào kỹ nghệ thuỷ tinh ngày nay, phải có nguyên liệu trước khi muốn làm đồ trang sức thủ công, nguyên liệu ấy là những khối thuỷ tinh. Với kinh nghiệm về lò làm đồ gốm, họ có có thể nung chảy cát trộn chung với muối và vỏ sò nghiền (vốn là những chất có sẵn ở miền Trung) thành khối thuỷ tinh nguyên liệu. Người xưa nung chảy dẽo những khối thuỷ tinh, rồi với dụng cụ sắt nắn, kéo thuỷ tinh thành hình dạng theo ý muốn. Người Sa Huỳnh có đủ điều kiện về nguyên liệu và kỹ thuật để sản xuất đồ trang sức thuỷ tinh. Nghề làm dụng cụ sắt của họ rất phát triển. Tuy nhiên, đây chỉ là suy luận, chứ chưa (và khó) có được bằng chứng qua di tích, di vật. Đây cũng là điều thường gặp trong ngành khảo cổ : người ta đào được nhiều đồ gốm cổ, nhưng ít khi tìm được lò hay dụng cụ gốc làm nên gốm ấy.
Hạt cườm thuỷ tinh nhỏ li ti là sản phẩm độc đáo của dân Sa Huỳnh cổ mới được phát giác gần đây. Cườm Sa Huỳnh nhỏ đến nỗi phải rây kỹ cát mới thấy; cườm nhỏ như thế ngay cả bây giờ không dễ làm được. Cườm cổ nhiều màu và nhiều dạng khác nhau, và dĩ nhiên đều có lỗ xỏ ở trục giữa. Vào tháng 6 năm nay, 2003, các nhà khảo cổ Việt Nam cũng vừa tìm thấy vô số hạt cườm tại Động Cườm. Chính bà Colani (bị gọi nhầm là ông Colani trong bản tin VNexpress.net năm 2003) đã khảo sát Động Cườm vào năm 1934 ; tại Hội Nghị khảo cổ Viễn Đông năm 1935 ở Philippines bà nhấn mạnh đến tầm quan trọng cho ngành tiền sử của khu mộ chum này (dưới tên “Tan Long”). Nhưng người ta mất dấu Động Cườm cho mãi đến gần đây. Nhờ cuốn nhật ký khảo cổ của bà, các nhà khảo cổ Bình Định đã tìm lại được Động Cườm ở xã Tăng Long ven biển xứ dừa Tam Quan nổi tiếng, nơi sông Lại Giang đổ ra biển. Trẻ con và dân địa phương nhặt cườm ở đấy từ xưa nên gọi là động Cườm, chứ không có “động” nào mà chỉ có những cồn cát vắng, nơi người tiền sử Sa Huỳnh táng người chết.
Trên diện tích 300 thước vuông khai quật năm 2002, các nhà khảo cổ đã tìm được gần năm mươi mộ, nhiều mộ còn nguyên với đầy đủ đồ tùy táng, và vô số những hạt cườm nhỏ bằng đầu tăm, nhiều màu, từ đỏ sẫm đến xanh dương, nhiều đến nổi “gom không xuể “.
Bà Colani ghi trong nhật ký hai địa điểm khảo cổ tại Tam Quan : Gò Tháp và Động Cườm. Gò Tháp xưa có tháp Chàm, hiện nay nhiều người ở nên khó khai quật, và cũng ít hy vọng tìm được mộ còn nguyên vẹn, vì nơi nào có mộ chum cổ, dân nghèo đến đào tìm đồ quý đem bán. Cũng may cồn cát Động Cườm không người ở, cũng chẳng ai biết có mộ chum, nên mới còn di vật đến bây giờ !
Cánh đồng Chum ở Lào
Những mộ chum tại Trung Việt là những chum bằng đồ gốm, vỏ mỏng ; chum tương đối to nhưng thường cao không quá một thước. Chúng được chôn kỹ dưới đất nên không bị thời gian và con người phá hoại. Trên cánh đồng lộng gió thuộc tỉnh Xieng Khuang bên Lào, cách thành phố Phonsavanh vài mươi cây số, có từ bao giờ không ai biết rõ, hàng trăm chum khổng lồ bằng đá nằm rải rác, một phần thân chôn dưới đất, miệng chum cao hơn mặt đất, hướng lên trời. Đa số chum cao gần hai thước, nặng cả tấn. Cái to nhất cao hơn 3 mét, nặng vài tấn. Bà Colani không phải mất công tìm như ở những nơi khác, thấy ngay chúng khi đến nơi đó -Ban Ang- . Người Pháp đặt tên Plaines des Jarres Đồng Chum (tiếng Anh : Plain of Jars).
Những chum Lào được đẽo từ đá cát (sa thạch, cát kết) nơi khác đem về chôn trên cánh đồng này. Năm 1931, khi bà Colani đến, dân chúng địa phương và bọn trộm cướp đã lấy hết đồ quý giá bên trong từ lâu. Trong các chum chỉ còn bùn than lẫn với vai mẩu xương răng bị đốt. Bà không bỏ cuộc, cho đào xới và tìm được rất nhiều di vật trong phần đất chung quanh các chum, trong đó có dụng cụ bằng đồng thau và sắt, bà cho rằng người xưa dùng chúng để đục khắc chum. Ngoài ra còn có nhiều hạt chuỗi bằng thuỷ tinh và đá carnelian, vỏ sò, vòng tay bằng đồng thau, chuông đồng và đồ bằng đất nung sơn hình kỷ hà. Những món đồ này cũng như những di vật ông Parmentier tìm được trước đó theo bà Colani là đồ táng, và các chum chứa xương cốt người chết hỏa thiêu.
Chum Ban Ang được thế giới biết đến nhiều nhất, nhưng trong tỉnh Xieng Khuang cũng có nhiều chum cổ khác. Bà tìm thấy nhiều chum tại nơi bà gọi là Champ d’Aviation de Lat Sen (tên sân bay Pháp lúc đó), thật ra bà tìm thấy chum trên đỉnh hai ngọn đồi dốc thẳng.
Bà công bố kết quả nghiên cứu di vật cổ trong những sách chuyên đề ngay sau đó: Cự thạch cổ của Bắc Lào (Mégalithes du Haut-Laos, COLANI Madeleine, Paris, Ed. d’art & d’histoire, 1935, 2 quyển, 271 và 358 trang), và Sử dụng đá thời xa xưa (Emploi des pierres en des temps reculés- Annam-Indonesie-Assam, Hanoi, 1940, 462 p). Cự thạch là đá nguyên tảng thật to do người thời tiền sử chặt đẽo và dựng lên tại một nơi chọn lựa theo tín ngưởng thuở ấy.
Sách cũng ghi lại truyền thuyết do dân chúng địa phương kể về nguồn gốc chum : một sứ quân ra lệnh làm chum chứa rượu đế khao quân mỗi khi thắng trận. Và cũng theo truyền thuyết, chum được làm bằng cát nấu với đường và da trâu. Điểm này hoàn toàn không đúng. Gần đây, khi thám hiểm lại vùng Xieng Khuang theo ghi chép của bà Colani, giáo sư khảo cổ đại học Iowa, Russel Ciochon, tìm thấy được các chum đúng tại những nơi sách bà Colani ghi chú. Ông đem về mẩu chum “sân bay Lat sen” và qua kính hiển vi tìm thấy cấu trúc thông thường của đá cát (cuộc thám hiểm được kể lại trên web site www.uiowa.edu/~bioanth/laoskeep.html). Điều làm ông Ciochon cũng như nhiều người khác ngạc nhiên là các Chum vẫn còn đó qua mấy cuộc chiến, “cánh đồng Chum” là vùng nhận nhiều bom quân đội Mỹ nhất trong chiến tranh Đông Dương, không chỉ vì bị oanh tạc, mà còn là nơi máy bay Mỹ bỏ các bom chưa thả hết ở Việt Nam trước khi đáp xuống phi đạo Thái Lan.
Chum trên cánh đồng Ban Ang do ai làm, vào lúc nào, không ai biết chắc chắn. Ngoài giải thích chum là “quách” đựng di cốt sau khi hỏa thiêu, bà Colani còn suy luận rằng di tích Chum Ban Ang nằm trong đường dây văn hóa rộng lớn vào thời đồ đồng thau. Bà so sánh, liên hệ Chum ở đấy với chum Sa Huỳnh và chum trên những đồi bắc Cachar, vùng Assam (An Độ) cách Ban Ang 600 miles, vì tất cả đều có hài cốt vụn. Bà cho là cả ba di tích thuộc “đường dây” người buôn muối từ Sa Huỳnh qua bắc Lào, lên đến bắc Cachar. Những người này có cùng văn hóa, với tục táng người trong chum. Bà còn vẽ một bản đồ với đường nối liền ba di tích, và đoán trước là nếu thám hiểm dọc theo đường này sẽ tìm ra nhiều di tích chum khác.
***
Trong số nhũng nhà khảo cổ chuyên nghiêp hay tài tử người Pháp hay nước khác hoạt động tại Đông Dương, có lẽ Madeleine Coloni là người đã khai quật nhiều địa điểm nhất. Không những đồ vật xương cốt thu thập đã nhiều hơn người khác, bà còn biết vận dụng nhiều môn khoa học như điạ chất học, cổ thực vật học, dân tộc học, và khảo cổ học để phục vụ công việc khảo cổ.
Bà là người xông xáo, làm việc không ngưng nghỉ với hiệu quả cao, suy luận sâu, nên kết quả công bố rất nhiều. Thế mà, dù cộng tác lâu năm với TVĐBC, bà chưa bao giờ được nhận là thành viên của Trường này. Có lẽ vì tiếng tăm nổi bật, bà là nạn nhân của ganh tị, ghen ghét đến từ các nam đồng nghiệp.
TVĐBC đã từng bị tai tiếng vì không tổ chức đúng đắn việc khảo cổ trong nửa đầu thế kỷ 20 ; trường đã dung túng những người không chuyên môn khai quật sai quy cách vì chỉ cần những người này đem về một phần di vật cho Trường. Thí dụ trường hợp Pajot, một nhân viên quan thuế, khai quật di tích Đông Sơn, trường hợp hai cố đạo Max và Henry de Pirey làm khảo cổ. Ngoài hậu quả tai hại để lại do những bàn tay tài tử bất chuyên và đầu óc chỉ biết tư lợi, chẳng hạn di tích bị mất mát, xáo trộn, gây khó khăn cho việc nghiên cứu về sau, còn lại là thành kiến và hình ảnh xấu về việc người ngoại quốc khai quật khảo cổ đất nước Việt Nam trong lòng người địa phương.
Đồng nghiệp bà từng đồn đại bà buộc cô em Léonore làm những chuyện cực nhọc nhất và đối xử khắc nghiệt với cô. Bà thòng dây cho cô em xuống một hang xưa, bà chỉ kéo cô lên khi cô tìm ra được cổ vật. Chuyện khó tin, vì không lí do khiến cô em buộc lòng phải theo bà trong tất cả các cuộc thám hiểm trên toàn cõi Đông Dương trong mấy mươi năm. Hai chị em vẫn cùng làm việc cho đến lúc cả hai qua đời, chỉ cách nhau vài tháng, vào năm 1943, lúc đó bà 77 tuổi. Năm 70 tuổi bà còn khai quật những di tích tại Hà Tĩnh, và tìm ra nền văn hóa cổ Thạch Lạ ; . ngay sau đó bà khám phá ra ở Gio Linh một công trình thủy lợi người cổ làm bằng bằng đá để đưa nước từ hố chứa đến nhiều nơi cho những công dụng khác nhau.
Bà Colani xứng đáng được người Việt cũng như người Lào biết đến và vinh danh, bà đã cống hiến cả cuộc đời cho việc khảo cứu, làm ngời sáng đất nước Việt và Lào qua văn hóa tiền sử. Biết đến để ít ra tránh được sai lầm gọi Madeleine Colani bằng ông !
Tài liệu tham khảo : Sách Khảo cổ học Việt Nam, và nhiều Web sites
Nguyễn Quang Trọng