Đồ đời Lý nhiều món thường có men trắng, hay trong lòng tô màu trắng, ngoài màu nâu đậm, nhưng không vẽ hình màu. Ðồ Trung Hoa vào thời này lại ít khi dùng men trắng. Sang đến đời Minh, men lam hồi từ Persia được nhập cảng vào Trung Hoa và Việt Nam. Từ đây, đồ Chu Đậu của Việt Nam và đồ men lam Trung Hoa bắt đầu được phát triển, tạo nên hai loại đồ tuyệt đẹp, nhưng lại khác nhau hoàn toàn, tuy cùng có nhiều hình vẽ màu xanh biếc trên nền men trắng ngần. Đồ Chu Đậu thuần Việt, còn đồ men lam của nhà Minh, nhà Thanh lại hoàn toàn Trung Hoa. Đồ “men lam Huế” như chen vào chính giữa, có những nét Việt nhưng lại là đồ sứ Trung Hoa. Đồ “men lam Huế”, hay phổ thông hơn là đồ “Bleu de Hue” – đôi khi bị hiểu sai là đồ sứ làm ở Huế – là loại đồ men trắng xanh, do vua quan Việt Nam họa kiểu riêng, đặt làm bên những lò gốm nổi danh bên Tàu. Tên gọi “men lam Huế” do ông Vương Hồng Sển dịch theo từ “bleu de Hue”, do người Pháp dùng để chỉ các món đồ “men lam Hồi” (Hồi: Ả Rập) mà họ thấy có nhiều ở Huế. Khi tìm hiểu về văn hóa Việt, ông này thấy ở Huế có nhiều món đồ men lam Hồi đặc biệt nên gọi chung là “bleu de Hue”.

Đáng lẽ khi viết về đồ cổ Việt Nam ta không nên nói về đồ làm ở Trung Hoa. Tuy nhiên đồ “men lam Huế” tuy là xác Tàu nhưng lại mang hồn Việt, vì vậy chúng tôi thấy nên tìm hiểu rõ ràng, nên sưu tập.

Nói vắn tắt, đồ men lam Huế gồm những món sau:

  • đồ Nội Phủ và đồ Khánh Xuân: Trịnh Sâm đặt;
  • đồ Mai Hạc: Nguyễn Du đặt;
  • đồ do các vua nhà Nguyễn đặt, đồ chữ nhật;
  • đồ thờ nhà họ Đặng: Đặng Huy Trứ đặt;
  • tô “Mó Rận” và “Nằm ệch”…, không rõ do ai đặt;

 

Đồ Nội Phủ và Khánh Xuân

Dồ gốm và đồ sứ Trung Hoa vốn được bán ở Việt Nam từ lâu, nhưng hình như chúa Trịnh Sâm là người đầu tiên đặt cán lò sứ ngự dụng ở Trung Hoa làm những món theo ý riêng để dùng trong vương phủ của mình. Trịnh Sâm là một con người rất đặc biệt, văn võ kiêm toàn, tham vọng lớn, mà hào hoa cũng nhiều. Nếu ông không chết sớm thì chắc lịch sử ta cũng còn nhiều biến động. Trịnh Sâm đặt làm rất nhiều đồ sứ theo ý mình, dưới đáy có ghi rõ từng kiểu: nội phủ thị trung, nội phủ thị bắc, nội phủ thị tả, nội phủ thị hữu, nội phủ thị đoài… Những món đồ này rất đẹp, xứng đáng là đồ ngự dụng. Nước men trắng, dày, sáng, nét vẽ sắc, chi tiết linh động, màu xanh biếc chỗ đậm chỗ nhạt. Khi uy quyền lên tuyệt đỉnh, Trịnh Sâm không hài lòng với ngôi chúa, mà muốn thoán ngôi nhà Lê để làm vua, dù rằng vua Lê lúc bấy giờ chỉ là bù nhìn, còn quyền lực đều ở cả trong tay Trịnh Sâm. Ngoài việc cử sứ bộ Vũ Thần Triệu sang xin nhà Thanh phong cho mình làm vua khi Lê Hiển Tông băng hà, để chuẩn bị lên ngôi, ông mang hết đồ “Nội Phủ” dâng cho vua Lê (vào thời khác, đây là việc khi quân, có thể bị xử chém, vì không ai có thể mang đồ đã dùng cũ để dâng vua cả. Như thế đủ hiểu Trịnh Sâm coi thường nhà Lê thế nào, đủ hiểu vua quan nhà Lê hèn nhát thế nào). Rồi để thay vào đồ Nội Phủ, Trịnh Sâm lại đặt người Tàu làm một loại đồ khác, dưới đáy ghi kiểu “Khánh Xuân”, Khánh Xuân thị tả, Khánh Xuân thị trung…

 

Đồ Khánh Xuân và đồ Nội Phủ đều do lò Cảnh Đức Trấn, điều khiển bởi tay kỳ tài Đường Anh dưới đời Càn Long, làm. Đồ Khánh Xuân khác đồ Nội Phủ ở chỗ rồng vẽ có năm móng, biểu tượng đế vương. Nhưng mưu kế không thành, cầm biểu cầu phong của Trịnh Sâm đi đến Động Đình Hồ, Vũ Thần Triệu đốt bỏ tờ biểu cầu phong rồi tự tử để khỏi mang tiếng phản vua. Sứ bộ cầu phong đành về nước, mưu thoán ngôi của Trịnh Sâm bị hỏng. Rồi sức khỏe suy xụp, ông đau mà chết trước cả vua Lê Hiển Tông, năm đó Trịnh Sâm mới được 44 tuổi. Ít năm sau, vua Quang Trung ra Bắc hai lần, lần trước diệt Trịnh phù Lê, lần sau phá quân nhà Thanh. Khi trở về Phú Xuân, vua Quang Trung mang theo phần lớn gia sản họ Trịnh, với cả đồ Nội Phủ lẫn đồ Khánh Xuân. Khi Nguyễn Ánh thống nhất sơn hà, gia sản nhà Tây Sơn trở nên đồ dùng trong cung điện họ Nguyễn. Nhà Nguyễn suy, đồ trong cung bị hoạn quan lấy bán ra ngoài, vì thế đồ Nội Phủ và đồ Khánh Xuân chỉ có nhiều ở Huế. Ông Vương Hồng Sển trước sau tìm được bảy món Nội Phủ thị trung, bốn món Nội Phủ thị hữu, bốn món Nội Phủ thị đông, ba món Nội Phủ thị đoài, ba món Nội Phủ thị bắc, một món Nội Phủ thị nam và sáu món Khánh Xuân thị tả. Chúng tôi không may mắn như vậy, nên chỉ có ba đĩa Khánh Xuân thị tả và vài món Nội Phủ, vậy mà cũng rất vui sướng rồi.

Đồ Mai Hạc

Nguyễn Du, kẻ tài tử suốt đời gặp chuyện không vừa ý, không muốn làm quan mà phải làm quan, muốn lãng du với núi rừng Hồng Lĩnh mà lại sinh giữa thời cuộc đảo điên, thơ ông lúc nào cũng u uất cái tâm tư quằn quại của kẻ thất tình. Con người lãng đãng đó lại được vua Gia Long trọng cử đi sứ nhà Thanh (đời vua Gia Khánh). Những bài thơ trong Bắc hành tạp lục là những tiếng thở dài u uẩn, là nỗi đau trầm thống và cũng là niềm mong ước cuộc phiêu lãng triền miên giữa những vùng sương khói của núi rừng, của tâm tưởng. Năm ấy, năm 1813, khi cầm đầu sứ bộ Việt Nam, kẻ nửa quan lại, nửa nghệ sĩ đã ngao du khắp vùng danh thắng ở Trung Hoa, rồi tìm đến lò sứ Ngoạn Ngọc ở Giang Tây, nơi sản xuất những món đồ sứ nhà Thanh tuyệt hảo, để đặt làm bộ chén trà Mai Hạc. Bộ chén trà Mai Hạc là một tác phẩm Việt, được tạo thành bởi bàn tay nghệ sĩ Trung Hoa. Bộ Mai Hạc được sản xuất nhiều lần. Ta có thể quả quyết rằng trước khi Nguyễn Du tới thăm, thì lò Ngoạn Ngọc không hề làm bộ Mai Hạc này. Bởi vì những bộ chén này gồm ba chén quân, một chén tống. Đây là cách uống trà của người Việt, không phải cách uống của người Tàu. Cái đĩa chỉ to vừa để úp ba chén quân cạnh nhau, còn chén tống thì được úp lên một trong ba chén quân. Chén và đĩa giống nhau, vẽ hình một cội mai già đang trổ bông, thân mai cằn uốn như hình chữ nữ, chim hạc đứng bên phải cội mai, chân co chân duỗi, quay đầu nhìn xa. Phía bên trái có viết hai câu lục bát nôm bất hủ của Nguyễn Du:

Nghêu ngao vui thú yên hà
Mai là bạn cũ, hạc là người quen

Thơ nôm lục bát của Nguyễn Du, người Tàu không đọc được nên họ tìm cách ngắt câu cho cân đối một cách tức cười. Đồ sứ làm hoàn toàn bằng tay, mỗi món một lần, hình giống nhau nhưng nét mỗi bản mỗi khác, nên tùy hứng của người họa sĩ Trung Hoa mà hai câu lục bát này được ngắt câu sai vài cách khác nhau. Cách thường thấy nhất là:

nghêu ngao vui thú yên hà
mai là
bạn cũ hạc là người quen

Đĩa Mai Hạc còn thấy nhiều ở Huế (cả đồ thật lẫn đồ giả) nhưng chén Mai Hạc thì rất khó tìm. Những tay buôn đồ cổ ở Việt Nam nói rằng trong mấy năm qua, du khách Tàu, Nhật mê lắm, tìm mua hết mang về xứ. Uổng cái là người mình lại thờ ơ với một món đồ rất đẹp, có gốc tích nên thơ như vậy. Những kẻ yêu cái đẹp, cầm chiếc đĩa mai hạc trên tay, đọc câu thơ nôm của Nguyễn Du, khó có thể bỏ xuống ngay được. Men trắng mịn, nét vẽ màu xanh lam Hồi khi đậm khi nhạt, rất thần tình. Hình chim hạc đứng trên gò đá cạnh cây mai gợi niềm tâm tư lãng đãng những chốn đi về mộng mị. Người nào quen thuộc với Bắc hành tạp lục, với Thanh Hiên thi tập thì còn như thấy ẩn hiện cái quằn quại của Nguyễn Du. Nhà Ngoạn Ngọc làm đĩa Mai Hạc với thơ nôm Nguyễn Du rồi, Nhà Nhã Ngọc lại làm thêm bộ chén y như vậy, nhưng lại viết hai câu ngũ ngôn chữ Hán:

hàn mai xuân tín tảo
tiên hạc táo chi đầu

nghĩa là:

hoa mai nở sớm báo xuân sang
chim hạc về trưóc đứng đầu cành

Ðồ do vua nhà Nguyễn đặt, đồ chữ nhật

Vua Gia Long, kẻ dựng nghiệp trên mình ngựa, từ năm 17 tuổi đã sống cuộc đời binh đao, khi lên ngôi phải lưu tâm đến việc củng cố chế độ, việc ổn định quốc gia, lại thêm đồ chiến lợi lấy được của nhà Tây Sơn còn rất nhiều nên không đặt làm chén đĩa mấy. Qua các đời sau, xã hội ổn định, văn học phát triển, các vua Minh Mạng, Thiệu Trị bắt đầu đặt làm nhiều đồ riêng. Có những món ghi niên hiệu vua nhà Nguyễn, ngoài ra còn rất nhiều món ký hiệu chữ nhật. Vì từ đời Minh Mạng, tên tức vị của các vua nhà Nguyễn đều thuộc bộ nhật. Loại đồ chữ nhật rất nhiều kiểu. Tuy cùng làm bởi các lò sứ nổi danh của Tàu, nhưng khác với đồ Mai Hạc của Nguyễn Du ở điểm là ngoài thơ nôm, lại còn vẽ những phong cảnh Huế, những chuyện tích của nhà Nguyễn. Ngoài bộ đồ trà, ống giắt bút, đĩa, còn phần lớn là tô lớn, to bằng cỡ cái tô ta dùng ăn bún bây giờ. Chúng tôi có một số tô loại này, và còn thấy một số khác ở Huế. Hình như ông Vương Hồng Sển là người sưu tầm được nhiều món thuộc loại này nhất.

  • Ðời Gia Long có bộ chén trà ký niên hiệu Giáp Tý, Mậu Thìn, tô vẽ mãn họa san thủy niên hiệu Kỷ Tỵ và tô vẽ tứ thời niên hiệu Canh Ngọ.
  • Ðời Minh Mạng thì có tô anh hùng hội niên hiệu Canh Thìn, ống bút niên hiệu Giáp Thân, đĩa trà sơn thuỷ niên hiệu Bính Tuất, hộp son để dóng ấn niên hiệu Mậu Tý, đĩa vẽ hạc rập, đĩa vẽ Đắng Vương Các niên hiệu Canh Dần, tô uống trà vẽ lưỡng long tranh châu, ký Minh mạng niên chế, chén tống hoa dây ký Minh Mạng niên tạo.
  • Ðời Thiệu Trị có bộ chén trà lộc-trúc, bình hút thuốc lào, tô chữ nhật không hình toàn chữ, tô “ngư gia độ hoàng gia” hiệu Ngoạn Ngọc, chén “ngư gia độ hoàng gia” hiệu Mỹ Ngọc…
  • Ðời Tự Đức có rất nhiều món, đáng kể nhất là: đĩa “đồng-nguyệt-tùng-phong-cầm-vận” (vẽ cây ngô đồng, vầng trăng bạc, cây thông già, trận gió mát, tiếng cung đàn, một vần thơ) năm Tự Đức ngũ niên, đĩa vẽ ông câu Nhâm Tý mạnh đông 1852, bộ chén trà “ngũ liễu” năm 1857, và những món ký hiệu chữ nhật như tô vẽ Bá Nha Tử Kỳ có câu thơ nôm “hai kẻ bạn tri âm – vui thay một khúc cầm – non cao cùng nước biếc – rằng để ít ai ngâm”, tô “liễu mã” vẽ bốn con ngựa đứng kề cây liễu (tích “tứ mã công khanh”), đĩa vẽ bốn con vịt “phi minh túc thực” (mỗi con một động tác: bay, kêu, ngủ, ăn)… Nói chung đời Tự Đức có nhiều đồ đặt làm nhất và hình vẽ, nội dung dồi dào nhất. Ðồ đời Tự Đức thường ký hiệu chữ nhật.

Ðồ thờ nhà họ Đặng

Đặng Huy Trứ đi sứ nhiều lần, rồi lại giữ chức Bình Chuẩn Sứ, trông coi về việc buôn bán ở các cửa biển nên ông đã nhiều lần đặt làm đồ riêng cho mình. Vì cùng thời, cùng loại nên so với đồ Mai Hạc, đồ Chữ Nhật, đồ thờ nhà họ Đặng chỉ khác ở hình vẽ. Loại này rất hiếm, ông Vương Hồng Sển có vài tô dùng đựng nước cúng trên bàn thờ nhà họ Đặng, như tô có bài thơ nôm “một thức nước in trời”.

Tô Mó Rận và tô Ngã Lừa

Chúng tôi chưa hề thấy tận mắt những món rất đặc biệt mà ông Vương Hồng Sển cho là đồ do sứ bộ nhà Tây Sơn đặt làm. Ông cũng chỉ có bốn món: đĩa Trân Ngoạn vẽ hình ông già nhiều râu ngồi dựa cây liễu, kế đó có ông tiên cưỡi ngựa với câu thơ nôm nhắc lại tích Trần Đoàn và Triệu Khuông Dẫn: “Mó rận luận chơi thời sự – Ngã lừa mừng thủa thái bình”, đĩa Trân Ngoạn vẽ hình hai cội tùng cổ, có ông già nằm bắt chân chữ ngũ bên gốc, với câu thơ nôm:

vắt chân nằm ghệch ngáy o o
ngẫm xem chẳng khác Ðường Ngu thói thuần

Ðĩa vẽ hình ông quan ngủ ngồi dưới cội cây, thơ chữ Hán:

dụng hội tùy nhân hưu trước ý
thanh phong thùng hạ chỉ cao miên

Ðĩa Trân Ngoạn vẽ hình sông nước, thơ chữ Hán:

phong nguyệt thanh lâu song phú diệm
yên ba tịnh phiếm nhất châu khinh

Ðĩa Gia Lạc vẽ hình tòa thành cao, dưới đất có con ngựa gặm cỏ, kế bên có ông quan chỉ tay lên thành đứng cạnh một người nhỏ vóc, như kẻ tùy tùng, thơ nôm:

Một cụm lâu đài mỉa tốt tiên
Khác con mắt tục tức ưa nhìn
No nao tay phím dây cầm sắt
Kẻo nhọc thung thăng sứ điệp truyền

Suy từ khẩu khí của mấy câu thơ này, ông Vương Hồng Sển cho rằng đây là đồ do nhà Tây Sơn đặt làm. Chúng tôi không đồng ý cũng chính vì lối suy luận riêng về cái khẩu khí của mấy câu thơ ấy. Đời Tây Sơn chuộng kẻ anh hùng, thanh gươm yên ngựa, sao lại làm thơ thoát tục như vậy. Thêm nữa, nước men kém mịn, nét vẽ lại lem luốc, chúng tôi độ rằng đây là đồ đời nhà Nguyễn sau này.

Tóm lại, đồ men lam Huế làm bởi các lò sứ Giang Tây nổi tiếng, nhưng do người Việt vẽ kiểu, đề thơ. Tuy rằng chưa cổ gì mấy (từ đời Trịnh Sâm đến nay chỉ mới ngoài hai trăm năm) nhưng vì vừa thể hiện tâm tình Việt, vừa đẹp, lại vừa rất đặc sắc ở chỗ “xác Tàu, hồn Việt” nên xin kể như một nhánh đặc biệt của văn hóa Việt Nam.

 

Bùi Ngọc Tuấn

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.