Lâu nay, rải rác trên sách báo viết về cố đô Huế, từng có bài đề cập đến Hổ Quyền – đấu trường hoàng cung, nơi các vua triều Nguyễn trước kia đã tổ chức bao trận huyết chiến giữa voi và cọp. Thế nhưng, vì nhiều lý do, mãi đến giờ phần đông du khách vẫn chưa được tham quan Hổ Quyền!

Mời bạn cùng tôi về Huế dạo thăm di sản văn hoá vật chất có một không hai này. Rồi từ đó, chúng ta thử lần tìm một di sản văn hoá phi vật chất cũng mang tên Hổ Quyền, gọi nôm na là “võ hùm” hay “võ cọp”. Phải chăng đây là một môn phái thuộc hệ thống võ Kinh – còn gọi võ Huế – từng “vang bóng một thời” song hiện đã thất truyền?

Thuở bé, tôi sống cùng gia đình trong một ngôi nhà vườn xinh xắn nằm trên đường Huyền Trân Công Chúa ở cố đô Huế. Con đường ấy ngày nay mang tên Bùi Thị Xuân. Nhưng xưa kia, Sở Địa lý của Pháp ghi rõ trên bản đồ là Route des Arènes (đường Hổ Quyền). Và cả vùng đất rộng lớn thuộc mạn nam sông Hương, từ ga Huế đến nhà máy vôi và xi măng Long Thọ, thời trước – chí ít là thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX – vẫn được gọi là khu Hổ Quyền (Quatier des Arènes). Đây là nơi quy tụ nhiều di tích lịch sử – văn hoá nổi tiếng, như bến Trường Súng, miếu Lịch Đại Đế Vương, lăng Tuy Lý Vương, phủ Dương Xuân, đàn Sơn Xuyên, phường Đúc, thành Lồi, giáo đường Trường An, tu viện Thánh Tâm. Tuy nhiên, qua tên đường, tên đất như đã nêu, đủ thấy Hổ Quyền đóng vai trò quan trọng thế nào đối với cả khu vực nói riêng, và toàn kinh đô Phú Xuân nói chung.

Từ di sản vật chất

Hổ Quyền 虎圈, theo Từ Nguyên, có nghĩa “dưỡng hổ chi sở giả”, nghĩa là chỗ nuôi cọp. Thực tế, Hổ Quyền ở Huế vốn không chỉ nuôi “chúa tể rừng xanh” mà chủ yếu dùng làm nơi để hùm và voi tỉ thí.

Trước khi Hổ Quyền được xây dựng, nhiều trận “tượng tranh hổ đấu” đã được các chúa Nguyễn (1558 – 1775) tổ chức tại một số địa điểm nhằm rèn luyện bầy voi chiến. Mùa xuân Canh Ngọ 1750, chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát cùng triều thần đi thuyền đến cồn Dã Viên để xem voi với cọp giao đấu suốt một ngày ròng. Pierre Poivre ghi nhận kết quả: 18 con cọp bị 40 con voi tiêu diệt. “Ông ba mươi” dễ gì chịu thảm bại thế được? Thì ra, theo chứng nhân người Pháp này, mãnh thú đã bị hạn chế sức mạnh bởi nhiều cách: bị nhốt lâu ngày trong cũi chật hẹp, bị cắt vuốt, bị may miệng, lúc tham chiến thì cổ lại bị tròng một sợi dây mà một đầu dây cột vào một cái trụ. Thảo nào!

Dưới triều Gia Long, nhiều trận đấu giữa voi và cọp diễn ra ngay trên bãi đất trước Kinh thành. Binh lính phải cầm khí giới quây tròn thành “hàng rào sống”, tạo nên đấu trường cho hai loài thú. Qua hồi ký Souvenirs de Hué (Kỷ niệm xứ Huế) công bố tại Paris năm 1867, Michel Đức Chaigneau (1) thuật lại sự cố xảy ra ngoài dự kiến: cọp bứt được dây trói, nhảy lên đầu voi, tát chết viên quản tượng khiến vua quan lẫn dân chúng khiếp đảm! Đến triều Minh Mạng, nhân lễ tứ tuần đại khánh của hoàng đế vào năm Kỷ Sửu 1829, một trận đấu tương tự cũng diễn ra ở tả ngạn sông Hương. Để an toàn, vua ngự lãm trên thuyền rồng. Ngờ đâu, lần nữa cọp lại bứt dây, nhảy tòm xuống sông, bơi tới… long thuyền. Đích thân hoàng đế hốt hoảng cầm sào đẩy lùi mãnh thú; rồi lính tượng dịch kịp thời chèo nhanh xuồng đến, dùng vũ khí giết chết “ông ba mươi”. Ngay sau sự cố hãi hùng đó, nhà vua quyết định xây đấu trường một cách chắc chắn, đảm bảo an toàn cho khán thính giả. Hổ Quyền xuất hiện ở hữu ngạn dòng Hương, cạnh miếu Long Châu tức điện Voi Ré, vào mùa xuân đúng năm con cọp: Canh Dần 1830.

Hổ Quyền là một đấu trường lộ thiên, cấu trúc đồ sộ và kiên cố theo hình vành khăn gồm 2 vòng tròn đồng tâm. Có lần, trên chuyến máy bay từ Hà Nội vào Huế, tôi quan sát Hồ Quyền và thừa nhận rằng cụ Bửu Kế ví von rất chuẩn trong Nguyễn triều cố sự (Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1956; NXB Đà Nẵng tái bản, 1996): “giống như một cái giếng xây bằng vôi gạch”.

Mô hình trường đấu
Voi được đưa ra đấu trường. Ảnh: Pierre Dieulefils.

Cái giếng cạn khổng lồ nọ có lòng 44m đường kính. Ấy là bãi chiến trường của cọp và voi. Thành cao 6m, chu vi tường ngoài 140m, dày 5m ở mặt đất và 4m ở miệng. Chính con đường với lộ giới 4m này chạy tròn trên miệng lòng chảo đấu trường tạo nên khán đài để quan quân cùng dân chúng mục kích các trận thư hùng, mà khán đài chính hình chữ nhật (diện tích 96m2 được tôn cao thêm 1,5m) dành riêng cho vua, hoàng gia, các bậc quốc khách. Khán đài của bậc “thiên tử” quay về hướng nam theo nguyên tắc Dịch học. Để lên khán đài chính, có một cầu thang 20 bậc. Còn lên khán đài bình thường thì dùng cầu thang 15 bậc cách đấy 15m về phía phải. Giữa hai cầu thang này, tường thành Hổ Quyền có trổ một cổng khá to, lắp khung cửa bằng đá (cao 3,9m, rộng 1,9m) để quản tượng dẫn voi – được nuôi gần đấy – vào lòng chảo mà tử chiến với lũ cọp bị giam cầm trong 5 cái chuồng xây ngay ở chân tường, đối diện với khán đài chính. 5 chuồng có kích cỡ không giống nhau: 3 cái nhỏ (2,6 x 2,1m), 2 cái lớn (3,2 x 2,65m). Vì thế, trong một bài viết đăng trên tạp chí Khảo Cổ Học số 2 năm 1977, GS. Lê Văn Hảo phỏng đoán chuồng lớn nhốt cọp, chuồng bé nuôi báo hoặc gấu.

Chuồng để nhốt voi trước khi thi đấu tại Hổ Quyền
Chuồng để nhốt hổ
Năm cửa chuồng hổ, trong đó cửa to nhất để nhốt voi

Ngay trên chuồng chính giữa, hiển hiện tấm biển bằng đá Thanh với 2 chữ Hán 虎圈 Hổ Quyền được chạm nổi rất sắc sảo. Bến trái tấm biển, chạy dòng lạc khoản: 明命十一年正月吉日造. Phiên âm: Minh Mạng thập nhất niên chính nguyệt cát nhật tạo. Nghĩa: Xây dựng vào ngày tốt tháng giêng niên hiệu Minh Mạng thứ XI nhằm tháng 2-1830.

Dân địa phương vẫn truyền tụng: xưa, các trận đấu voi cọp thường được tổ chức hằng năm vào mùa xuân. Phụ thân của tôi còn kể về trận “tượng tranh hổ đấu” cuối cùng diễn ra ở Hổ Quyền:

Ấy là năm Giáp Thìn 1904, cuối triều Thành Thái. Ba nghe nhiều bậc cao niên tận mắt xem cuộc đấu đó, thuật lại rằng voi vốn sợ cọp, thấy cọp thì cứ lảng tránh. Rốt cùng, một con voi cái vào đấu trường, tiến đến khiêu chiến trước mặt cọp. “Chà! Con voi này can đảm lắm!” – nhà vua vừa buông lời khen thì cọp nhảy phóc lên, vồ trán voi. Cọp rớt xuống, lại lao bấu vào chỗ cũ. Voi tức giận, rống to, đồng thời vụt chạy thẳng tới trước, dồn sức vào đầu ép dí đối thủ sát tường thành. Khi voi ngẩng đầu thì cọp ngã oạch xuống đất. Ngay lập tức, voi dùng chân chà chết kẻ thù!

Bậc cấp lên khán đài đấu trường Hổ Quyền

Gần một thế kỷ trôi qua, Hổ Quyền bị bỏ phế hoàn toàn. Quanh khu vực này, cây cối um tùm, một số hộ cất nhà che lấp cả mặt tiền di tích. Trong lòng chảo đấu trường, một thời hoang hoá, một thời dân chúng đánh luống trồng sắn khoai, một thời có người sử dụng mặt bằng để chiếu video kinh doanh. Giáp Tết Mậu Dần 1998, tôi trở lại xem Hổ Quyền có gì thay đổi, phải vất vả lắm mới leo lên được khán đài. Bởi trên tường thành và trong 5 chuồng thú, tranh tre lau lách tha hồ chen mọc làm nứt nẻ gạch vữa nhiều chỗ. Và thật buồn cười, đấu trường hoàng cung ngày xưa, giờ trở thành nơi… bầy bò ngang nhiên gặm cỏ!

Hổ Quyền hiện nằm trong địa phận thôn Trường Đá, xã Thuỷ Biều (2), TP. Huế. Chị Tôn Nữ Quỳnh Tương – thư ký Hội đồng Nhân dân xã này – cho biết:

Hổ Quyền từng được Bộ Văn hoá Thông tin phê duyệt về việc khoanh vùng bảo vệ di tích từ ngày 27-10-1991. Nhưng lâu ni, đây vẫn cứ điêu tàn ôi lại nối điêu tàn (3) vì chưa được đầu tư bảo vệ và duy tu, dù bây chừ Hổ Quyền đã trở thành một di tích trong quần thể được phong là “di sản văn hoá thế giới” (4).

Cũng lạ! Đông đảo du khách nội địa ghé Huế thường thăm viếng kinh thành, cung điện, lăng tẩm, chùa chiền, chứ mấy ai lưu ý Hổ Quyền? Trong khi đó, khá nhiều du khách nước ngoài ngày ngày đổ về phế tích này để chiêm ngưỡng. Tôi tận mắt trông thấy mấy tốp du khách Âu Mỹ vạch lau lách, chui vào xem chuồng thú. Có những người lật sách song ngữ Kiến trúc cố đô Huế – Monuments of Hue của Phan Thuận An (NXB Thuận Hoá, 1997). Sách đó có đoạn: “Hổ Quyền có giá trị cao về mặt lịch sử và văn hoá. Khắp các nước Đông Á, kể cả Trung Quốc và Nhật Bản, không thấy có đấu trường nào tương tự. Hổ Quyền ở Huế chẳng những là một di tích đặc biệt và độc đáo của Việt Nam, mà còn là một di tích quý hiếm của thế giới.”

…đến di sản văn hoá phi vật chất

Các trận đấu giữa cọp và voi ở Hổ Quyền xưa, ngoài mục đích giải trí cho vua chúa và quan lại cùng dân chúng, có lẽ còn mang ý nghĩa tích cực đối với thời đại bấy giờ là cổ xuý việc tiêu diệt hổ – loài mãnh thú thường gieo rắc tai hoạ xuống bao thôn làng. Tuy nhiên, còn một hệ quả rút ra từ các trận thư hùng ấy song ít người biết: đó là quan sát cách thức công, thủ của “chúa tể rừng xanh”, cha ông ta đã sáng tạo nên hệ thống bài bản, thế miếng chiến đấu chống cầm thú và chống thù trong, giặc ngoài. Một môn phái võ học từng xuất hiện: Hổ Quyền Đạo, gọi nôm na là võ cọp hay võ hùm.

Đền thờ voi

Tôi tình cờ phát hiện điều này qua một người ông. Đó là lão võ sư Trần Ngọc Côn, bà con thường gọi Đội Côn vì trước kia ông từng đảm chức Đội trong lực lượng khố xanh, khố đỏ, khố vàng gì đấy. Nhà ông ở cách di tích Hổ Quyền một quãng ngắn. Trong ngôi nhà ba gian hai chái, ngay gian giữa, phía trước bàn thờ gia tiên, ông kê cặp giá cắm đủ thập bát ban binh khí. Cứ nghĩ ông tinh thông võ ta và võ Tàu – những Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi. Cứ nghĩ ông một thời nuôi chí bình Tây kiểu Đội Cung, Đội Cấn. Lần nọ, tôi ghé thăm ông. Ông Đội Côn ngồi nhắm rượu, khề khà kể tôi nghe hồi thứ 22 trong Thuỷ hử truyện của Thi Nại Am:

Quận Hoành Hải, Sài Tiếp tiếp tân;
Núi Cảnh Dương,Võ Tòng đánh hổ.

Rồi ông dạy:

Nước mình cũng có lắm cao thủ tay không giết cọp, chả thua kém Võ đô đầu. Vợ chồng danh tướng Trần Quang Khải và Bùi Thị Xuân lừng danh “đả hổ” từ thời Tây Sơn. Đến triều Nguyễn, đại nguyên soái Lê Văn Khôi (5) cũng nổi tiếng đánh cọp. Thời ông mới lớn, con nhà võ đều nhắc tới một nhà sư gốc Bình Định, từng tham gia các phong trào Cần Vương và Đông Du. Không ai rõ danh tính nhà sư đó, chỉ biết rằng nhân vật đó võ nghệ cao cường, đeo tay nải, khoác cà sa, mà quật ngã cọp, nên thiên hạ phong tặng danh hiệu Tăng Bạt Hổ (6). Thực ra, Đả hổ pháp là một phần nhỏ trong muôn vàn bí kíp của Hổ Quyền Đạo.

Ông Đội Côn lấy bút ghi mấy chữ Hán 虎拳道 Hổ Quyền Đạo, đoạn nhắp ngụm rượu, và tiếp:

Mà cháu biết không, người đấu với cọp tuy khó, nhưng cũng chưa gay go bằng người đấu với… người, nhất là hạng uyên thâm võ nghệ. Với cọp, chỉ cần am tường tập tính của mãnh thú. Nó ngồi 2 chân sau, chống thẳng 2 chân trước, là đang thủ thế. Nó đứng lên, hất đuôi sang trái là sẽ vồ bên phải và ngược lại. Đấu sĩ tuỳ trường hợp mà luồn lách, hụp tránh, tìm cách tung đòn vào yếu huyệt ở phần bụng và phần ngực cọp để hạ gục nó. Với người, cương nhu biến hoá linh hoạt khó lường. Cha ông ta đã bắt chước cọp, tạo nên lối đánh nhanh, mạnh, chớp nhoáng: phóng mình, vồ chụp, siết, đấm, chém, trảo, kết hợp liên hoàn cước, lợi hại vô cùng. Kể ra, trong Linh thú ngũ quyền là Long, Hổ, Hầu, Xà, Hạc, mỗi phái đều có những lợi hại riêng, song Hổ Quyền quá mãnh liệt và độc hiểm nên không thể truyền thừa rộng rãi. Thôi, đợi sau này cháu khôn lớn, ông chỉ bày Hổ Quyền Đạo cho.

Tiếc thay, tôi đã không thụ giáo được với ông lấy nửa miếng! Thuở ấy, nghe thì nghe vậy. Vả, tạng tôi khoái văn chương, nghệ thuật. Rồi tôi đi học xa. Lúc biết tin ông mất, tôi rất buồn nhưng chẳng thể về Huế đưa tang.

Vấn đề tưởng chừng chìm vào quên lãng. Vừa qua, những ngày cận Tết Mậu Dần 1998, trở lại Huế thực hiện phóng sự về di tích Hổ Quyền, tình cờ tôi gặp anh Trọng, họ tên thật Nguyễn Trọng Phước – một võ sư rất tâm huyết với kho tàng võ học nước nhà. Trong câu chuyện “trà dư tửu hậu”, biết tôi là cháu của ông Đội Côn nhưng chưa hề trau luyện Hổ Quyền Đạo, anh Trọng quay quắt than:

Trời ơi! Anh Phanxipăng bỏ qua cơ hội ngàn vàng, không thừa kế được di sản quá quý báu của tiền nhân thì tiếc quá, tiếc quá! Trong các môn phái của võ dân tộc Việt Nam, Hổ Quyền Đạo thuộc loại bí truyền. Chao ôi! Chẳng biết hiện nay, đồng bào ta có ai còn bảo lưu được các đòn thế Hổ Quyền?

Là người ngoại ngũ tuần, từng nếm trải công phu Thiếu Lâm, võ sư Trọng phân tích:

Mặc dù sách vở Trung Nguyên luôn cho rằng “võ công thiên hạ xuất Thiếu Lâm”, nhưng nhìn lại lịch sử, chúng ta có thể tin rằng người Việt từng sáng tạo nên một nền võ học riêng, phù hợp với thể trạng và điều kiện thuỷ thổ của riêng mình. Nhờ vậy, dân tộc ta mới tồn tại và phát triển qua bao phen ngoại xâm ghê gớm chứ. Đồng ý rằng nền quốc võ có tiếp thụ, thái dụng nhiều tinh hoa võ học nước ngoài, nhưng chắc chắn các võ phái Việt Nam có bản sắc độc đáo riêng. Tây Sơn phái ở Bình Định là một minh chứng (7). Võ ta còn lưu truyền Hầu Quyền, Xà Quyền, Hạc Quyền. Tuy nhiên, Hổ Quyền thì…

Anh Trọng phát biểu hợp lý. Theo tôi biết, trong truyền thống võ học Trung Hoa, sau khi Bồ Đề Đạt Ma viên tịch, các cao đồ tra cứu Thập bát la hán quyền của tổ sư, phân thành Thất thập nhị huyền công (72 thức căn bản) rồi triển khai ra 173 thức, đúc kết nên hệ thống Linh thú ngũ quyền. Riêng Hổ Quyền của Thiếu Lâm đã biến hoá nên Hắc hổ quyền, Bạch hổ quyền, Ngũ hổ quyền, v.v. Ấy là quyền thuật. Mỗi bài quyền lại có nhiều ứng dụng qua binh khí. Như Ngũ hổ quyền chuyển soạn thành Ngũ hổ lạc dương với côn thuật, Ngũ hổ truy phong với đao thuật, Ngũ hổ tung hoành với kiếm thuật. Vậy nhưng, tại các quốc gia Đông Nam Á, như Indonesia chẳng hạn, dân tộc Java vẫn sở đắc riêng nền võ học bản địa với Tji Monjet (Hầu Quyền), Tji Oelar (Xà Quyền), Tji Matjan (Hổ Quyền). Chẳng hay Hổ Quyền của Việt Nam “thậm thâm vi diệu” cỡ nào?

Sực nhớ rằng ở gần đấu trường Hổ Quyền có Ngô Chỉnh, một võ sư trẻ tuổi. Nghe đồn anh này từng luyện võ nghệ với nhiều danh thủ, trong đó có ông Đội Côn, nên tôi tìm tới nhà để hỏi. Ngô Chỉnh gật:

Hồi sinh tiền, ông Đội thu nhận rất ít đệ tử. Nhưng ông chưa dạy Hổ Quyền cho bất cứ ai, kể cả mình. May mắn là thuở mình học phân thế Mai hoa quyền của Thiếu Lâm, thấy ông Đội biểu diễn so sánh sự khác biệt giữa đòn võ Tàu và võ Việt tuy cùng tên gọi. Mà chỉ mấy đòn à. Hổ giáng long thăng nì. Lưỡng hổ tấn sơn nì. Mãnh hổ ly sơn nì. Mình nài nỉ mấy, ông vẫn kiên quyết không bày thêm. Về sau, bỏ công tìm tòi, mình được biết trong võ giới nước ta còn trân tàng một số bài bản đặc sắc như Long hổ quyền, Phục hổ quyền. Làm răng sưu tập đủ đầy, có hệ thống được? Gay quá!

Tuy chỉ thuộc độ tuổi “tứ thập nhi bất hoặc” song Ngô Chỉnh là tay đấm được dân nhà nòi yêu quý vì tài năng và đức độ cùng công phu rèn luyện. Tiếc rằng cách đây không lâu, vấp một tai nạn bất ngờ, anh bị gãy cột sống và chấn thương sọ não, may mà được cứu chữa kịp thời. Dẫu đang đứng ngồi cực kỳ khó khăn trong giai đoạn điều trị phục hồi chức năng, nhưng khi bàn chuyện võ thuật, anh vẫn tỏ ra say mê lắm. Ngô Chỉnh tiết lộ với tôi một điều quý giá:

Mình ngờ rằng giai đoạn cuối đời, ông Đội dồn sức ghi chép tỉ mỉ toàn bộ yếu pháp của Hổ Quyền Đạo để truyền cho hậu thế…

Phanxipăng
Đăng lại từ tạp chí Chim Việt Cành Nam (Chimviet.free.fr)

Đã đăng tạp chí Tài Hoa Trẻ 39 (2-1998)
Rồi in trong sách Huế chừ của Phanxipăng (NXB Thanh Niên, 2000)

Chú thích:

(1) Michel Đức Chaigneau (1803 – 1894) là con đầu lòng của Jean-Baptiste Chaigneau / Nguyễn Văn Thắng (1769 – 1832) – một người Pháp theo Pierre Joseph Georges Pigneau de Behaine / giám mục Adrian / cha Cả / Bá Đa Lộc sang nước ta giúp vua Gia Long – và Benette Hồ Thị Huề.

(2) Theo Nghị quyết 14/NQ-CP của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 25-3-2010, xã Thuỷ Biều có 657,3 ha diện tích tự nhiên và 9.929 nhân khẩu chuyển thành phường Thuỷ Biều trực thuộc thành phố Huế.

(3) Trích từ bài thơ Mắt người Sơn Tây của Quang Dũng.

(4) Ngày 11-12-1993, UNESCO công nhận quần thể di tích Huế là di sản văn hoá thế giới / le patrimoine mondiale / the world heritage. Quần thể ấy gồm 16 công trình kiến trúc vào triều Nguyễn, trong đó có Hổ Quyền.

(5) Lê Văn Khôi có họ tên thật Bế Nguyễn Nghê, là con nuôi của Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt.

(6) Bạn đọc có thể tham khảo bài Tăng Bạt Hổ có họ tên thật là gì? của Phanxipăng đã đăng tạp chí Thế Giới Mới 757 (22-10-2007) rồi truyền vào Chim Việt Cành Nam 43 (16-4-2011):

(7) Bạn đọc có thể tham khảo phóng sự Đất võ hôm nay của Phanxipăng đã đăng tạp chí Thế Giới Mới 144 (31-7-1995) và in trong sách Cốt cách mùa xuân (NXB Thuận Hoá, 1997) rồi truyền vào Chim Việt Cành Nam 44 (1-9-2011):

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.