Sau thất bại của Tôn Sĩ Nghị, nhà Thanh dẫu muốn tiến đánh nước ta một lần nữa, tình thế không chắc đã hơn những chiến dịch chinh phục Miến Điện (có thể còn vất vả hơn), chi phí nặng nề mà mối lợi chưa thấy đâu cả. Chính vì lẽ đó, ngay từ đầu, sau khi lượng giá tình hình, đình thần nhà Thanh đều “chủ hòa”. Sau khi Tôn Sĩ Nghị bị triệu hồi về kinh, tình hình giữa hai bên bớt căng thẳng, nhà Thanh lập tức thay đổi thái độ nên việc phong vương cho vua Quang Trung trở thành một nghi lễ cần thiết, một phần để vua Càn Long chữa thẹn cho chính mình, một phần chính vì Trung Hoa muốn tuyên oai vương đức cho các chư hầu biết là phương nam đã thần phục hầu khỏa lấp chiến thắng quân sự vang dội của Đại Việt.
Trước đây, nước ta thường chỉ ở vai trò phiên thuộc bậc hai, có khi còn thấp hơn nữa. Đời Mạc và Lê trung hưng, vua ta chỉ được phong làm An Nam đô thống sứ, kèo nài mãi mới được phong An Nam quốc vương. Người Tàu lại luôn luôn dùng nghi lễ phong vương như một cơ hội để hống hách, doạ nạt mà triều đình nước ta luôn luôn phải nhịn.[8]
Cứ theo sử sách, người Trung Hoa luôn luôn nhìn về phương nam như một nơi man di mọi rợ, ma thiêng nước độc mà tướng lãnh nào cũng e ngại khi phải cầm quân chinh phục. Người ta thường đồn rằng nước ta có chướng khí gọi là mộc tê chướng (木樨瘴) hay hoàng mao chướng (黃茅瘴), một năm chỉ có mùa đông là đỡ hơn còn ba mùa xuân, hạ, thu đều thịnh. Chướng khí này hẳn là bệnh sốt rét vàng da mà chính người Việt cũng sợ khi phải lên những vùng rừng núi. Người Tàu lại e ngại dân mình tính tình bất khuất, cứng cỏi không bao giờ chịu để người ngoài vào cai trị, sớm muộn cũng nổi lên giành quyền tự chủ, từ nghìn xưa vẫn thế.
Phúc Khang An khi vừa đáo nhậm chức tổng đốc Lưỡng Quảng liền tâu lên:
Nguyên văn
…該國地方,南北三千里,東西二天里,程站既多,則師行難速,而彼中四時氣候,惟冬季 三月,瘴癘不作,其餘春夏秋三季,則毒霧淫霖,不可觸染,與緬甸無異。若興師大舉,必須於十月進兵,十二月奏捷,次年正月班師,方為萬全無患,然軍旅之 事,豈能剋定時日,倘此三月內不能蕆事,則一交春令,瘴氣大作,撤兵則前功盡棄,留兵則傷亡必多,是安南之不必用兵,非因地利不便,人事不協,總以天時限 之。 歷代以來,迄無成功,職此之故,今阮惠因與黎氏為仇,以致勞我師,徒靡我糧餉。乃大兵進關未久,該酋屢次乞降,明係抗拒於前,輸款於後,形跡之間,轉旅窒 碍。閲其表文,內稱西山布衣,明其並非竊據人國,復云跡似抗衡,明其不敢得罪於天朝。 但其措辭含糊推諉,並未將實非抗拒之處,明晰剖白,此時若遽淮其所請,恐該酋驕詐性成,轉豈輕易中華之漸。[9]
Dịch âm
… Cai quốc địa phương, nam bắc tam thiên lý, đông tây nhị thiên lý, trình trạm ký đa, tắc sư hành nan tốc, nhi bỉ trung tứ thời khí hậu, duy đông quí tam nguyệt, chướng lệ bất tác, kỳ dư xuân hạ thu tam quí, tắc độc vụ dâm lâm, bất khả xúc nhiễm, dữ Miến Điện vô dị. Nhược hưng sư đại cử, tất tu ư thập nguyệt tiến binh, thập nhị nguyện tấu tiệp, thứ niên chính nguyệt ban sư, phương ư vạn toàn vô hoạn, nhiên quân lữ chi sự, khởi năng khắc định thời nhật, thảng thử tam nguyệt nội bất năng siển sự, tắc nhất giao xuân lệnh, chướng khí đại tác, triệt binh tắc tiền công tận khí, lưu binh tắc thương vong tất đa, thị An Nam chi bất tất dụng binh, phi nhân địa lợi bất tiện, nhân sự bất hiệp, tổng dĩ thiên thời hạn chi.
Lịch đại dĩ lai, ngật vô thành công, chức thử chi cố, kim Nguyễn Huệ nhân dữ Lê thị vi cừu, dĩ chí lao ngã sư, đồ mi ngã lương hướng. Nãi đại binh tiến quan vị cửu, cai tù lũ thứ khất hàng, minh hệ kháng cự ư tiền, thâu khoản ư hậu, hình tích chi gian, chuyển lữ trất ngại. Duyệt kỳ biểu văn, nội xưng Tây Sơn bố y, minh kỳ tịnh phi thiết cứ nhân quốc, phục vân tích tự kháng hành, minh kỳ bất cảm đắc tội ư thiên triều.
Đãn kỳ thố từ hàm hồ thôi ủy, tịnh vị tương thực phi kháng cự chi xứ, minh tích phẫu bạch, thử thời nhược cự hoài kỳ sở thỉnh, khủng cai tù kiêu trá tính thành, chuyển khởi khinh dị Trung Hoa chi tiệm …
Dịch nghĩa
… Địa phương nước này (tức nước ta), từ bắc xuống nam ba nghìn dặm, từ đông sang tây hai nghìn dặm, chặng đường phải nhiều, việc kéo quân đi khó mà có thể nhanh được, huống chi nơi đó khí hậu bốn mùa, chỉ có ba tháng mùa đông, chướng lệ không nổi lên, còn ba mùa xuân, hạ, thu kia, đều có sương độc mù mịt, không thể nhiễm được, chẳng khác gì Miến Điện.[10]
Nếu như kéo đại quân qua, thì ắt phải tiến binh vào tháng mười, tháng mười hai phải thắng, tháng giêng năm sau trở về, có thế mới vạn toàn không nguy hiểm. Khổ nỗi việc quân lữ, đâu có thể nào định trước thời gian, nếu như trong ba tháng việc chưa xong, đến mùa xuân rồi, chướng khí bùng lên, nếu triệt binh thì công lao từ trước coi như bỏ đi, lưu binh thì thương vong hẳn lớn. Thành thử chẳng nên dụng binh đất An Nam, không những địa lợi không tiện, nhân sự không hợp, mà chính vì thiên thời có giới hạn.
Từ xưa đến nay, chưa bao giờ thành công cũng là vì lẽ đó, hiện nay Nguyễn Huệ có thù với họ Lê, khiến phải lao khổ đến binh lính chúng ta, phí tổn lương hướng. Thế nhưng đại binh tiến quan chưa bao lâu, gã tù (trưởng) kia mấy lần xin hàng, rõ ràng là trước khi kháng cự, (cũng như) sau khi thua (?) trận, lúc nào cũng tỏ vẻ sợ hãi. Xem biểu văn thấy trong đó y xưng là kẻ áo vải đất Tây Sơn, rõ ràng không có ý chiếm nước của người khác, cũng không có ý chống lại, đủ biết không dám đắc tội với thiên triều.
Thế nhưng lời của y cũng vẫn còn mù mờ, chưa hẳn có thực không kháng cự hay chăng, cần phải phân biện rạch ròi, còn như như y xin đã cho ngay, e rằng gã tù trưởng này kiêu ngạo, gian dối đã quen, dần dà lại đâm coi thường cả Trung Hoa …
Theo sử nhà Thanh, một mặt Phúc Khang An nhờ Ô Đại Kinh đưa thư hăm dọa, một mặt điều quân đến Trấn Nam Quan phòng ngự quân Tây Sơn tấn công qua. Quả thực sau trận chiến đầu năm Kỷ Dậu, tình hình giữa hai quốc gia rất căng thẳng, vua Quang Trung cũng chưa dám rút quân về Phú Xuân và vẫn còn trong tình trạng củng cố lực lượng để đề phòng quân Thanh mở một cuộc tấn công kế tiếp. Ông đã tích cực cho đắp một ‘thành lũy bằng đất quanh điện vua Lê, dày 20 piê (bộ)” trong ba ngày ba đêm liền[11]. Ngoài ra ông còn bố trí những đạo quân từ Thăng Long dọc lên biên giới khiến dân chúng hoang mang và việc quân Thanh tập trung ở Trấn Nam Quan cũng tạo nên mối kinh hoàng cho dân cư ở khu vực này.Nhiều người sợ vạ lây nên đã tìm cách tránh khỏi vùng lửa đạn. Hai bên “giữ miếng” như thế nhiều tháng trời cho tới khi Trung Hoa công nhận triều đình Quang Trung và xúc tiến những thủ tục phong vương. Trong nhiều tháng trời, hai sứ thần của ta là Nguyễn Hữu Chu (Trù) và Vũ Huy Tấn (Phác) phải chạy đi chạy lại từ Thăng Long lên Lạng Sơn đến bảy lần rất vất vả.
Ngày 22 tháng 2, sau khi nhà Thanh đã đánh tiếng là họ bằng lòng phong vương cho vua Quang Trung, phái bộ Đại Việt tất cả hơn 20 người, do Nguyễn Hữu Chu cầm đầu, từ Thăng Long đi lên, mang tờ biểu cầu phong đồng thời chuẩn bị lễ lạc và dự bị tiệc mừng, đánh dấu một thắng lợi vẻ vang trong bang giao giữa hai nước.
Lá thư chính thức đó nguyên văn như sau:
Nguyên văn
安南國小目臣阮光平堇奏為冒瀝微誠仰干天聽事,欽惟大皇帝陛下,受天明命,為萬國君,臨御五十餘年,洪恩溥洽,華夷內外,同風共貫,臣安南界居炎徼,久沐教聲。
乃因二百年來,國王黎氏失柄,權臣鄭氏專有其國,暨前王黎維端年老,輔政前鄭氏懦,兵驕民怨,國內乖離。臣以西山布衣乘時舉事,丙午夏,興兵滅鄭,還國于黎。
其年前王謝世,又擁立其嗣孫維祁襲位。維祁為人淫暴,不恤國政,朝綱弛於內,邊釁生於外,方宜陷害忠良,誅鋤族姓,國內之臣若民,奔愬於臣,請為出兵除亂。
臣自惟國者天朝所封之國,臣何敢自行廢置。丁未冬,遣一小將以兵問其左右之助桀者,而維祁望風宵遁,自詒伊戚。戊申夏,臣至黎城,復委前黎王之子維瑾監國承祀,經遣行价叩關,備以國情題奏。
日者邊臣反書卻使,不即遞達。去年冬,調動大兵,出關征剿,臣遠道聞信,自念從來一片畏天事大真衷壅於上聞,令前黎王子維瑾及臣民稟文三道偕行价叩稟轅門,不料大兵真趨黎城,殺守兵甚眾。
臣自揣進退無據,且其事總由黎維祁不道所致,於今年正月初五日進抵城下,並不敢與官兵抗拒也。乃官兵殺戮太多,勢難束手就縛,迹似抗衡,臣不勝惶懼現在已將對壘之人查出正法。
伏惟大皇帝體天行化,栽培傾覆,一順自然,恕蠻無知之禍,諒款關籲奏之誠,樹牧立屏,用祈籠命,俾臣得以保障一方,恪共侯服,則事有統攝,民獲乂安,皆出大皇帝陛下幬覆之仁。
臣謹當奉藩脩貢,以表至誠,臣拱北馳神,不勝激切屏營膽仰候命之至,謹奉表奏以聞。
一恭遞上進儀物,金子拾鎰,銀子貳拾鎰。
一謹遣行价貳名,阮有晭,武輝璞。
乾隆伍拾肆年貳月日。[14]
Dịch âm
An Nam quốc tiểu mục thần Nguyễn Quang Bình cẩn tấu vi mạo lịch vi thành ngưỡng can thiên thính sự, khâm duy đại hoàng đế bệ hạ, thụ thiên minh mệnh, vi vạn quốc quân, lâm ngự ngũ thập dư niên, hồng ân phổ hiệp, hoa di nội ngoại, đồng phong cộng quán, thần An Nam giới cư viêm kiếu, cửu mộc giáo thanh.
Nãi nhân nhị bách niên lai, quốc vương Lê thị thất bính, quyền thần Trịnh thị chuyên hữu kỳ quốc, ký tiền vương Lê Duy Đoan niên lão, phụ chính tiền Trịnh thị noạ, binh kiêu dân oán, quốc nội quai ly. Thần dĩ Tây Sơn bố y thừa thời cử sự, Bính Ngọ hạ, hưng binh diệt Trịnh, hoàn quốc vu Lê.
Kỳ niên tiền vương tạ thế, hựu ủng lập kỳ tự tôn Duy Kỳ tập vị. Duy Kỳ vi nhân dâm bạo, bất tuất quốc chính, triều cương trì ư nội, biên hấn sinh ư ngoại, phương nghi hãm hại trung lương, tru sừ tộc tính, quốc nội chi thần nhược dân, bôn sách ư thần, thỉnh vi xuất binh trừ loạn.
Thần tự duy quốc giả thiên triều sở phong chi quốc, thần hà cảm tự hành phế trí. Đinh Mùi đông, khiến nhất tiểu tướng dĩ binh vấn kỳ tả hữu chi trợ Kiệt giả, nhi Duy Kỳ vọng phong tiêu độn, tự di y thích. Mậu Thân hạ, thần chí Lê thành, phục uỷ tiền vương chi tử Duy Cẩn giám quốc thừa tự, kinh khiển hành giới khấu quan, bị dĩ quốc tình đề tấu.
Nhật giả biên thần phản thư khước sứ, bất tức đệ đạt. Khứ niên đông, điều động đại binh, xuất quan chinh tiễu, thần viễn đạo văn tín, tự niệm tòng lai nhất phiến úy thiên sự đại chân trung ủng ư thượng văn, lệnh tiền Lê vương tử Duy Cẩn cập thần dân bẩm văn tam đạo giai hành giới khấu bẩm viên môn, bất liệu đại binh chân xu Lê thành, sát thủ binh thậm chúng.
Thần tự sủy tiến thoái vô cứ, thả kỳ sự tổng do Lê Duy Kỳ bất đạo sở chí, ư kim niên chính nguyệt sơ ngũ nhật tiến để thành hạ, tịnh bất cảm dữ quan binh kháng cự dã. Nãi quan binh sát lục thái đa, thế nan thúc thủ tựu phọc, tích tự kháng hành, thần bất thắng hoảng cụ, hiện tại dĩ tương đối luỹ chi nhân tra xuất chính pháp.
Phục duy đại hoàng đế thể thiên hành hoá, tài bồi khuynh phúc, nhất thuận tự nhiên, thứ man mạch vô tri chi hoạ, lượng khoản quan dụ tấu chi thành, thụ mục lập bính, dụng kỳ lung mệnh, tỉ thần đắc dĩ bảo chướng nhất phương, khác cộng hầu phục, tắc sự hữu thống nhiếp, dân hoạch nghệ an, giai xuất đại hoàng đế bệ hạ trù phúc chi nhân.
Thần cẩn đương phụng phiên tu cống, dĩ biểu chí thành, thần củng bắc trì thần, bất thắng kích thiết bình doanh đảm ngưỡng hầu mệnh chi chí, cẩn phụng biểu tấu dĩ văn.
Nhất cung đệ thượng tiến nghi vật, kim tử thập dật, ngân tử nhị thập dật.
Nhất cẩn khiến hành giới nhị danh, Nguyễn Hữu Chu, Vũ Huy Phác.
Càn Long ngũ thập tứ niên nhị nguyệt nhật.
Dịch nghĩa
Thần là tiểu mục nước An Nam Nguyễn Quang Bình mạo muội kính cẩn đem tấm lòng thành tâu lên mong đại hoàng đế bệ hạ (là bậc) thụ mệnh sáng như trời, vua của vạn quốc, ở trên ngôi báu đã trên năm mươi năm, hồng ân rải khắp mọi nơi Hoa cũng như Di đều được thấm nhuần, (cả đến) nước An Nam củathần tuy ở chỗ viêm nhiệt xa xôi cũng từng được tắm gội, (xin) lấy đức lớn mà nghe cho.
Hai trăm năm qua, quốc vương họ Lê (nước tôi) mất quyền khiến cho quyền thần họ Trịnh coi giữ việc nước, đến vua trước là Lê Duy Đoan tuổi già, phụ chính họ Trịnh hèn yếu, binh kiêu dân oán, khiến người trong nước chia rẽ ngả nghiêng. Thần là kẻ áo vải đất Tây Sơn (vì thế) phải tùy thời mà dấy lên, mùa hạ năm Bính Ngọ, hưng binh diệt họ Trịnh, trả lại nước cho họ Lê.
Trong năm đó tiền vương tạ thế, thần lại đưa tự tôn là Duy Kỳ lên nối ngôi. Duy Kỳ là người dâm bạo[15], không lo quốc chính, mối giềng lỏng lẻo bên trong, lân bang gây hấn ở bên ngoài, chỉ lo hãm hại trung lương, giết người trong họ, người trong nước cũng như bầy tôi đều chạy về với thần, xin xuất binh trừ loạn.
Thần vẫn biết rằng nước đây đã được thiên triều sách phong, đâu dám tự ý phế lập. Mùa đông năm Đinh Mùi mới sai một tiểu tướng đem binh ra hỏi tội bọn tả hữu dám giúp cho kẻ Kiệt kia, hay đâu Duy Kỳ mới nghe tiếng đã bỏ chạy, tự mình làm khổ mình. Đến mùa hạ năm Mậu Thân thần đến Lê thành, đưa con của vua trước là Duy Cẩn trông coi việc thờ tự và giám quốc, rồi sai người sang gõ cửa quan trình bày mọi việc trong nước.
Khi đó người biên thần (chỉ Tôn Sĩ Nghị) lại trả lại thư, đuổi sứ về, không chịu đề đạt lên. Mùa đông năm ngoái y lại điều động đại binh, xuất quan qua đánh, thần ở xa nghe tin, tự nghĩ xưa nay một lòng kính sợ thiên triều, định đem tấc lòng giãi bày lên trên, nên mới bảo vương tử Lê Duy Cẩn và thần dân gõ cửa trình ba bẩm văn, ngờ đâu đại binh tiến thẳng đến Lê thành, giết binh trấn giữ nhiều vô số kể.
Thần chẳng biết tiến thoái ra sao, việc đó chính là do Lê Duy Kỳ không biết tính toán, nên đến ngày mồng năm tháng giêng năm nay tiến đến Lê thành, đâu có dám chống cự lại quan binh. Thế nhưng quan binh tàn sát quá lắm, thế không thể thõng tay chịu trói nên đành chống trả. Việc đó cũng khiến cho thần sợ hãi nên đã đem những kẻ dám đối địch chính pháp cả rồi.
Cũng mong đại hoàng đế theo mệnh trời hành hoá, tài bồi cho kẻ ngả nghiêng, thuận theo tự nhiên, tha thứ cho kẻ man di không biết, thấu cho lòng thành của kẻ cầu xin được chăn dắt ở một cõi mà để cho thần được đứng chắn ở một phương, làm chư hầu tuân phục thì mọi sự được thống nhiếp, dân chúng được yên ổn làm ăn, cũng đều do đức nhân của đại hoàng đế ban cho cả.
Thần nguyện triều cống theo lệ phiên vương, dâng biểu chí thành, hướng về phương bắc, không khỏi cảm kích trông đợi mệnh lệnh kính cẩn dâng lên tờ biểu này.
Cung kính đệ lên tiến vật gồm mười dật vàng, hai mươi dật bạc.
Cung kính sai hai hành nhân là Nguyễn Hữu Chu, Vũ Huy Phác.
Càn Long năm thứ 54, tháng hai.
Đây là lần đầu tiên sau cuộc chiến, cửa ải Nam Quan được chính thức mở ra để đón phái bộ Đại Việt. Chính vì thế hai bên phải tổ chức đại lễ để tiễn đưa và để đón sứ thần qua Trung Hoa, chánh phó sứ không còn phải đến gõ cửa như những lần qua đàm phán trước đó.
Trước khi sang Tàu sứ bộ Đại Việt nghỉ tạm ở một công quán có tên là Ngưỡng Đức Đài bên trong lãnh thổ nước ta (Ngưỡng Đức Đài ở bên này cửa ải Nam Quan, đối xứng với Chiêu Đức Đài bên phía Trung Hoa). Theo Đại Nam nhất thống chí và Phương Đình địa dư chí, năm Giáp Thìn (1784) đời Lê Hiển Tông, đốc trấn Lạng Sơn Nguyễn Trọng Đang đã tu bổ lại, lợp ngói cho khang trang.
Trước hết, chánh sứ Nguyễn Hữu Chu sai người qua ải cùng quan lại nhà Thanh ấn định nhật kỳ cử hành lễ, Thang Hùng Nghiệp cho biết nhà Thanh định vào ngày 18 tháng 3 năm Kỷ Dậu[16], tức là chỉ hơn 2 tháng sau khi Tôn Sĩ Nghị thua trận chạy về. Với tình hình liên lạc thời đó, việc chạy đi chạy lại giữa Bắc Kinh và Quảng Tây diệu vợi, gian nan trong 2 tháng nhà Thanh đã chấp thuận phong vương, quả thật đây là một thành tích xưa nay chưa từng có.
Ngày 16 tháng 3, tổng đốc Phúc Khang An đem quan binh bản bộ đến đóng ở cửa Nam Quan, một mặt truyền cho tuần phủ Tôn Vĩnh Thanh xây một lễ đài (mà sử Trung Hoa gọi một cách phách lối là thụ hàng thành), cách cửa ải 90 dặm. Các quan nhà Thanh thì đóng tại một vị trí cách ải 20 dặm để trông coi việc nghi thức, sau đó Thang Hùng Nghiệp mới cho mời sứ thần nước ta qua tương kiến.
Đến kỳ hạn, phái đoàn ta qua ải, Thang Hùng Nghiệp liền tiếp vào nghỉ tại Chiêu Đức Đài (đối xứng với Ngưỡng Đức Đài của nước ta) để thảo luận về nghi thức. Chánh sứ nước ta đưa ra một phó bản của biểu văn cầu phong, kèm theo lễ vật, thổ sản gửi cho vua Thanh cũng như các quan lại làm quà ra mắt. Trong biểu văn này, vua Quang Trung cũng đặc biệt ghi thêm “sẽ sai con trưởng của anh cả Nguyễn Quang Hoa là Nguyễn Quang Hiển”[17] theo sứ bộ đi sang để tỏ lòng thành. Phúc Khang An đọc biểu văn, tuy đã hoàn toàn đồng ý nhưng cũng sửa đổi vài chữ để cho sứ bộ nước ta viết lại một bản khác gửi về triều đình nhà Thanh coi như chính thức thần phục.
Ngày 19 tháng 3, lúc giờ Dần, tổng đốc Phúc Khang An ra lệnh cho tướng sĩ trấn thủ ở Nam Quan dàn đội ngũ, dựng cờ quạt rồi bày hương án ở Chiêu Đức Đài để làm lễ tiếp nhận biểu văn của nước ta. Nguyễn Quang Hiển cùng với phái bộ mấy trăm người đã dự bị sẵn, Phúc Khang An sai Thang Hùng Nghiệp mời Nguyễn Quang Hiển cùng 6 viên chức của sứ bộ nước Nam, thêm một thông ngôn và 60 tùy tòng, tổng cộng 68 người tiến qua Trấn Nam Quan.[18]
Đến giờ Thìn, Thang Hùng Nghiệp dẫn phái đoàn tới, mời vào Chiêu Đức Đài. Phúc Khang An bước ra nghênh tiếp, sau nghi lễ tương kiến, phái đoàn nước ta do chánh sứ Nguyễn Hữu Chu đứng ra trao lại biểu văn, tổng đốc Lưỡng Quảng thay mặt Thanh đình tiếp nhận. Sau đó nhà Thanh mở đại tiệc khoản đãi sứ bộ nước ta, đích thân Phúc Khang An bồi tiếp. Trong câu chuyện ngoài lề, Nguyễn Quang Hiển cũng cho hay những kẻ phạm tội sát hại các tướng lãnh nhà Thanh đã bị xử tội rồi, Phúc Khang An nghe xong coi như việc đã giải quyết, đề nghị sau này không nhắc tới nữa, chỉ xin nước Nam lập cho một cái miếu, xuân thu cúng tế những binh sĩ nhà Thanh tử trận. Để chính thức hóa việc dâng biểu cầu phong, Nguyễn Quang Hiển sẽ thay mặt triều đình Quang Trung cầm đầu phái đoàn lên Bắc Kinh triều kiến hoàng đế và cho biết đến năm sau (Canh Tuất 1790), Càn Long thứ 55 là năm khánh thọ bát tuần của vua Thanh, vua nước ta sẽ đích thân sang chúc mừng cùng các sứ thần phiên thuộc khác.[19]
Đến đây, việc thông hiếu của hai nước coi như đã quyết định, những lễ lạc khác chỉ là thủ tục. Hai bên đồng ý giảm thiểu số quân trấn đóng tại biên giới. Ngày mồng 10 tháng 4 năm Càn Long thứ 54, vua Cao Tông ra lệnh cho Phúc Khang An rút các đạo quân Quảng Đông, Vân Nam đang trú đóng ở Quảng Tây về doanh trại. Tôn Sĩ Nghị sau khi thua trận, thân thể hư nhược, bị bệnh phong thấp lúc đó đang nằm dưỡng bệnh nay cũng được lệnh cho về Nam Ninh nghỉ ngơi, còn Phúc Khang An cũng không còn phải chầu chực ở Trấn Nam Quan nữa. Vua Quang Trung cũng ra lệnh cho các đồn ải giảm bớt quân số phòng ngự.
Tuy đã chính thức công nhận, nhà Thanh vẫn còn câu nệ về một số tiểu tiết, cốt để gây khó khăn cho bên ta. Ngày mồng 3 tháng 5 năm Kỷ Dậu, vua Cao Tông gửi cho vua Quang Trung một đạo dụ, xác định là không truy cứu những việc đã qua nữa, nhưng chưa thể phong vương vì Nguyễn Quang Bình (tên mới của Nguyễn Huệ) chưa thân hành sang chầu mà chỉ sai cháu là Nguyễn Quang Hiển thay mặt đem biểu tiến kinh để đón phong hiệu, lễ chế đó thiên triều chưa từng có. Nếu quả Nguyễn Quang Bình có bụng thành kính, chi bằng đợi khi vua Càn Long làm lễ bát tuần vạn thọ vào năm sau (Canh Tuất 1790) thì hãy thân hành sang Bắc Kinh để xin phong vương.
Sứ thần nước ta lại phải một phen biện bạch lời hơn lẽ thiệt để nhà Thanh thông qua những thủ tục nặng phần hình thức này. Sau cùng triều đình nhà Thanh đành phải dễ dãi và vua Cao Tông truyền lệnh Phúc Khang An báo cho Nguyễn Quang Hiển khởi trình tiến kinh, và sai Thang Hùng Nghiệp hộ tống[20]. Ngoài ra vua Càn Long còn ban cho vua Quang Trung một chuỗi ngọc trai (trân châu thủ xuyến nhất quải – 珍珠手串一 掛)[21]. Trước đây sách vở vẫn dịch là một chuỗi ngọc trai để đeo tay. Có hai vấn đề chúng ta cần ghi nhận:
– Thời này khi chưa có ngọc trai nhân tạo, trân châu là một sản phẩm cực hiếm trong thiên nhiên, thường do các phiên thuộc tiến cống. Được ban một chuỗi ngọc trai là một việc đặc biệt. Ngọc trai lại chỉ dành riêng cho vua chúa và nhất đẳng đại thần vì Nhà Thanh qui định rất chi ly hạng bậc, không lẫn lộn.
– Nhà Thanh có thói tục đeo chuỗi ngọc, gọi là triều châu (朝珠), tùy theo cấp bậc y phục và trường hợp mà màu sắc, phẩm loại khác nhau (san hô, thanh kim thạch, lục tùng thạch, mật lạp, hổ phách …). Chuỗi ngọc này để đeo vào cổ khi mặc triều phục, mỗi chuỗi bao gồm 108 hột do ảnh hưởng của niệm châu (số châu) của Lạt Ma giáo (tiếng nôm na gọi là tràng hạt).
Ngoài triều châu ra, còn một loại vòng ngắn hơn chỉ có 18 hạt gọi là thủ xuyến (手串) không phải để đeo ở tay mà để đeo ở trước ngực (đàn ông) hay đeo vào áo (đàn bà) như một loại trang sức. Loại vòng này gồm 18 hạt châu và hai viên ngọc để phân cách, thường có thêm một giải ngọc đính vào. Nếu vua Quang Trung được ban thủ xuyến bằng ngọc trai (trân châu) có thể coi như là một món quà đặc biệt.
Đến đây mọi việc coi như đã an bài, triều đình nhà Thanh sẽ làm lễ trao ấn và sắc ở điện Thái hòa để sứ thần nước ta đem về nước. Nhà Thanh cũng sẽ cho một sứ thần đi theo phái bộ đến Thăng Long làm lễ phong vương cho vua nước ta.
PHÁI BỘ NGUYỄN QUANG HIỂN
Trung tuần tháng 5, Nguyễn Quang Hiển từ Thăng Long đi lên Lạng Sơn. Phúc Khang An nhận được sắc thư và chuỗi trân châu liền sai người đem đến Trấn Nam Quan còn Thang Hùng Nghiệp lập tức cho người chạy sang Lạng Sơn yêu cầu Nguyễn Quang Hiển lên cửa ải tiếp chỉ.
Ngày 25 tháng 5, sứ đoàn Đại Việt đến Chiêu Đức Đài đón sắc thư và quà của vua Thanh đem trở về trao cho trấn thủ Lạng Sơn Đinh Công Thái (丁公彩) đem về Thăng Long.
Ngày 27 tháng 5, phái đoàn nước ta do Nguyễn Quang Hiển cầm đầu, tất cả là 21 người, từ nhà khách của tỉnh Quảng Tây do Thang Hùng Nghiệp dẫn đường đi lên kinh đô nhà Thanh. Hai mươi mốt người đó gồm có:[22]
– Ba vị sứ thần:
o Chánh sứ Nguyễn Quang Hiển (阮光顯)
o Phó sứ Nguyễn Hữu Chu ((阮有晭)
o Phó sứ Vũ Huy Phác (武輝璞)
– Bồi tòng 1 người:
o Nguyễn Ninh Trực (阮寧直)
– Hành nhân 5 người:
o Trương Gia Nghiễm (張嘉儼)
o Phạm Bá Nhuận (范伯潤)
o Tạ Hữu Định (謝有定)
o Nông Đình Cẩn (農廷謹)
o Hoàng Huy Dực (黃煇翼)
– Tòng nhân 12 người:
o Hồ Văn Tòng (胡文從)
o Nguyễn Công Tuyết (阮公雪)
o Nguyễn Văn Cự (阮文鉅)
o Nguyễn Văn Bản (阮文本)
o Nguyễn Văn Cơ (阮文璣)
o Hoàng Văn Thành (黃文成)
o Lê Văn Trọng (黎文仲)
o Ngô Viết Kiệt (吳曰榤)
o Nguyễn Văn Uyển (阮文琬)
o Nguyễn Hữu Đễ (阮有悌)
o Trần Văn Dũng (陳文勇)
o Đỗ Đình Lập (杜廷立)
Phúc Khang An còn đặc biệt phái thêm Đức Khắc Tinh Ngạch (德克精額) là phó tướng mới của Thái Hiệp tỉnh Quảng Tây theo hộ tống, còn bản thân ông ta khởi trình từ Nam Ninh, đến Quế Lâm ngày 11 tháng 5 (nhuận), và hôm sau, 12 tháng 5 thì Tôn Vĩnh Thanh cũng tới. Việc đưa phái bộ Nguyễn Quang Hiển lên Bắc Kinh là một biến cố trọng đại, do chỉ thị trực tiếp từ vua Cao Tông, do đó cả ba vị quan đầu hai tỉnh Lưỡng Quảng đều theo lên Bắc Kinh. Mặc dù biệt đãi đó có thể do nhiều nguyên nhân, chiến thắng Kỷ Dậu cũng là một yếu tố quan trọng khiến cho Thanh triều thay đổi hẳn thái độ đối với nước ta.
Ngày mồng 9 tháng 6 năm Càn Long thứ 54, phái đoàn nước ta vào huyện Bồ Kỳ (蒲圻) tỉnh Hồ Bắc, tuần phủ Hồ Bắc là Huệ Linh (惠齡) đã phái ủy hán đạo Hoàng Đức là Mạnh Ngọc (孟鈺), tri phủ Võ Xương là Mục Thông A (穆通阿), thủ doanh tham tướng Võ Xương là Lặc Phúc (勒福) qua lại chiếu liệu.
Ngày 12 tháng 6, phái đoàn nước Nam đến tỉnh thành, tổng đốc Hồ Quảng là Tất Nguyên (畢沅) dẫn các ti thuộc ra nghênh đón, sau đó cho bày tiệc, tổ chức hát bội tiếp phái đoàn, lại đem các loại gấm vóc, tơ lụa ra tặng. Tơ lụa Hồ Châu vốn dĩ nổi danh trong thiên hạ, các quan lại nhà Thanh đón tiếp Nguyễn Quang Hiển trọng hậu như thế quả là một vinh hạnh từ xưa đến nay chưa từng thấy trong lịch sử Việt Nam.
Ngày 17 tháng 6, sứ thần nước ta vào đến châu Tín Dương tỉnh Hà Nam, tuần phủ Hà Nam là Lương Khẳng Đường (梁肯堂) phái Vạn Ninh (萬寧) thuộc đạo Nhữ Quang và tri phủ Nhữ Ninh là Bành Như Cán (彭如幹) ra nghênh đón tiếp đãi.
Ngày 29 tháng 6, phái đoàn lại từ phủ Chương Đức khởi hành đi Phong Lạc, khi ấy nước sông Chương Hà đang dâng cao, thuyền không thể qua được, đợi đến ngày mồng 1 tháng 7, nước bắt đầu rút, tri phủ Chương Đức là Lý Chu (李舟) đưa phái đoàn sang ngang tới tận Từ Châu, tỉnh Trực Lệ mới quay về.
Ngày mồng 6 tháng 7, đi đến Chính Định, ngày 13 tháng 7 thì đến tỉnh thành, các quan lại dọc đường nơi nào cũng đều đãi tiệc, diễn tuồng, tặng quà rất hậu hĩ.
Ngày 24 tháng 7, phái đoàn nước ta đến hành tại (nơi vua ở khi tuần du khỏi hoàng thành) ở Nhiệt Hà (熱河). Chánh sứ Nguyễn Quang Hiển, phó sứ Nguyễn Hữu Chu, Võ Huy Tấn[23]cùng tất cả phái đoàn vào chầu, vua Cao Tông cho ngự quyển là A Thắng Cảnh (阿勝境) gọi vào triều kiến.
Phái đoàn ta làm lễ chiêm cận (tức lễ ra mắt nhà vua) xong, vua Cao Tông liền mở tiệc đãi yến chung với các vương công đại thần, các bối lặc, bối tử Mông Cổ, các ngạch phò (con rể vua), đài cát … Sau khi ăn uống, nhà vua lại cũng cho tất cả các vương công, đại thần và quan khách xem hát bội[24]. Vua Cao Tông đặc biệt ban thưởng cho vua Quang Trung tượng Quan Âm bằng ngọc, cây như ý bằng ngọc, gấm thêu chỉ vàng đính hạt châu … Còn Nguyễn Quang Hiển cũng được ban thưởng ngọc như ý, tượng La hán bằng sứ, gấm thêu chỉ vàng, hộp bằng bạc … Các phó sứ, hành nhân cũng đều được ban thưởng tùy cấp bậc các món gấm vóc, hộp bạc hay ngân lượng[25]. Theo Từ Diên Húc (徐延旭) trong Việt Nam tập lược (越南輯略), bản in lần thứ hai, trang 42 thì những vật dụng ban thưởng cho phái bộ An Nam ghi rõ như sau:
Năm Càn Long thứ 54, vua An Nam sai chánh phó sứ ba người vào triều cống ở Nhiệt Hà, (vua Cao Tông) đặc biệt ban cho quốc vương 5 lần:
– Lần thứ nhất: ngọc như ý, ngọc quan âm, chuỗi châu thủy tinh màu xanh lục, bình thủy tinh[26], bình bằng sứ màu đỏ mỗi thứ một cái, hai cái hộp tết bằng chỉ bạc, gấm đoạn 3 tấm, ba cuộn giấy hoa tiên.
– Lần thứ hai: gấm thêu rồng (mãng – 蟒), thiểm đoạn (gấm lấp lánh), trang đoạn (gấm may áo mặc hàng ngày), mỗi thứ hai tấm.
– Lần thứ ba: Bốn lọ trà Trịnh Trạch, bảy bánh trà Phổ Nhĩ (trà Vân Nam đóng lại thành bánh), hai hộp trà cao, hai bình thuốc ngửi (tị yên bình, thường làm bằng ngọc ngà, đá quí), một mâm phật thủ (có lẽ đây là một loại điêu khắc theo hình mâm hoa quả chứ không phải trái phật thủ thật).
– Lần thứ tư: Ngọc như ý, tị yên hồ, chén bằng gỗ mun (mộc tất oản), một cái chén của Âu Châu (Pháp Lang oản)[27], gấm thêu hoa, bao súc nhung đất Chương.
– Lần thứ năm: Bát lớn bằng sứ, mâm sứ, đĩa mun, chén, lò hương hai cái, một con dao nhỏ.
Ngoài ra các chánh, phó sứ cũng được ban thưởng đủ 5 lần, mỗi người khác nhau chút ít. Những loại vật dụng này, phần lớn lấy trong Phương Viên Cư Khố (芳園居庫), ngoại trừ vải mao thanh do Ty Quảng Chư (廣儲司)thuộc nội vụ cung ứng.
Sau khi triều kiến vua Cao Tông, phái đoàn Nguyễn Quang Hiển lên đường trở về kinh đô[28], các đồ dụng được vua ban đều do bộ Lễ đảm trách việc mang đi.
Ngày 22 tháng 8, nhà Thanh tổ chức đại lễ trao sắc phong cho phái đoàn nước ta ở điện Thái Hoà. Nghi lễ do các đại thần lưu lại ở kinh đô sắp xếp, còn bằng sắc, ấn tín An Nam quốc vương thì bộ Lễ cũng đúc sẵn. Nguyễn Quang Hiển ở trước bệ rồng thay mặt vua Quang Trung nhận lãnh, hai vị quan đầu triều là Võ Anh Điện đại học sĩ A Quế[29] (阿桂) trao ấn, còn Văn Uyên Các đại học sĩ Kê Hoàng[30] (嵇璜) trao sắc, nghi thức do các tán lễ lang nhà Thanh chỉ đạo hành sự.
Để tỏ thiện chí, trước đó vua Quang Trung trả về cho nhà Thanh hơn 500 binh sĩ bị bắt trong trận đánh, trong số có đề tiêu du kích tỉnh Quảng Đông là Trương Hội Nguyên (張會元), thủ bị Lao Hiển (勞顯). Hai người này trước đây Tôn Sĩ Nghị đã báo cáo là tử trận. Tất cả các binh sĩ được thả về đều phải khai báo với quan nhà Thanh về sự tình đã xảy ra mà chúng ta đã có dịp biết qua để dựng lại chi tiết trận đánh Thăng Long ngày 5 tháng giêng năm Kỷ Dậu. Qua những lời khai, chúng ta cũng biết nhà Tây Sơn có một chính sách khá khoan hồng với tù binh, hơn hẳn cách đối xử tàn nhẫn của Tôn Sĩ Nghị chặt đầu những người bị bắt chỉ nhằm mục đích gia tăng chiến công của y, bất kể đến những qui luật tối thiểu.
Việc trao trả một số tù binh cũng khiến cho tự ái vua Càn Long và đình thần nhà Thanh được xoa dịu, Phúc Khang An cũng được tiếng là khéo thu xếp. Sau đó, nhận thấy tình thế đã thuận chiều, vua Quang Trung lại cho trả về thêm 39 người, lần thứ ba bên ta thả thêm 28 người nữa và sau cùng, lần thứ tư 18 người[31]. Về phía nhà Thanh, để đáp lại thiện chí của nước Nam cũng trả bọn Chu Đình Lý (朱廷理) 7 người về (một người là cai kỵ Nguyễn Viễn Du -阮遠猷 – chết vì bệnh khi bị giam). Những người này là quan binh của ta ở cửa ải Mục Mã bị nhà Thanh bắt giữ.
Ngoài ra, vua Quang Trung cũng khôn khéo nhượng bộ một số việc nho nhỏ, chẳng hạn cho phép Hoa kiều sống ở Thăng Long lập miếu thờ những tướng lãnh Trung Hoa bị giết trong trận Kỷ Dậu ở ngoại thành, hay trừng phạt những người đã sát hại họ. Tuy nhiên chúng ta cũng biết rằng đây chỉ là hình thức để cho qua chuyện, và chính quan lại nhà Thanh cũng chỉ mong chờ có thế để tuyên bố “những việc đã qua sẽ không hỏi thêm nữa” (dĩ vãng chi sự, bất phục thâm cứu – 已往之事,不復深究)[32] cho đẹp mặt.
Sau khi nghi lễ trao sắc ấn hoàn tất, phái bộ Nguyễn Quang Hiển lưu lại kinh đô thêm 2 ngày, người nào cũng mua nhân sâm đem về nước làm quà. Ngày 24 tháng 8 năm Kỷ Dậu, phái đoàn lại lên đường trở về nước.
LỄ PHONG VƯƠNG CHO VUA QUANG TRUNG
Vua Cao Tông sau khi phong cho Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương liền truyền chỉ cho Phúc Khang An cử quan lại người Mãn Châu sang nước ta để làm lễ. Tuy nhiên tỉnh Quảng Tây không có quan lại người Mãn Châu nên phải điều động Thành Lâm (成林) là Lễ bộ viên ngoại lúc đó đang đi tuần duyên hải Quảng Đông sang Thăng Long. Thành Lâm phụng mệnh khởi trình từ Quảng Châu ngày mồng một tháng tám, ngày 28 đến Trấn Nam Quan. Vào mùa thu nhiều chướng khí, vua Quang Trung lúc đó đang ở Nghệ An, cũng chưa lên đường ra kinh đô tiếp sứ nên Thành Lâm phải ở lại cửa quan để chờ.
Ngày 12 tháng 9, vua Quang Trung sai đề đốc Lê Xuân Thôn (黎春村)[33] đem 1000 phu dịch và 100 con ngựa cùng 500 vệ sĩ lên Trấn Nam Quan nghinh đón sắc dụ và ngự thi của vua nhà Thanh. Lê Xuân Thôn tới Nam Quan, qua ải vào Chiêu Đức Đài hành lễ tại long đình[34] tiếp chiếu.
Ngày 13 tháng 9, sứ thần nhà Thanh cùng phái đoàn nước Nam đưa sắc chiếu về Thăng Long, sử Tàu chép là quan ta bày nghi trượng đến 7, 8 dặm, đi đến đâu dân chúng cờ quạt đứng dọc đường reo hò vui vẻ.
Ngày 22 tháng 9, phái đoàn về đến Gia Quất (嘉橘), còn cách kinh thành chừng 6, 7 dặm, vua Quang Trung sai con thứ là Nguyễn Quang Thùy cùng Ngô Văn Sở, quan văn võ hơn 100 người ra đón. Thành Lâm vốn định ngày 24 tháng 9 sẽ chủ lễ phong vương, thụ sắc nhưng vua Quang Trung ngày 28 tháng 8 đã từ Nghệ An đi ra, đến huyện Đông Thành thì bị cảm phải nghỉ lại dưỡng bệnh, thành thử Thành Lâm đành phải chờ ở Gia Quất. Theo tờ bẩm của Thành Lâm thì “dân nước đó xa gần đều đến trước công quán để xem long đình, rất nhiều người lạy lục hò reo. Lại có hai viên mục tên là Đinh Phụ Tể, Cấn Danh Văn, tuổi đã ngoài 80, khi nghe tin sắc mệnh đến nơi, cũng không quản đường xa mấy trăm dặm đi tới, khấu đầu chúc mừng. Còn trấn mục Ngô Văn Sở, tức Ngô Sơ, và Ngô Thời Nhâm (Nhiệm) thì sớm tối đều đến thăm, hết sức ân cần”[35]. Cũng theo tài liệu của nhà Thanh, đêm hôm 14 tháng 10, vua Quang Trung đến Thăng Long, ngày hôm sau Thành Lâm tuyên chỉ phong làm An Nam quốc vương[36]. Thành Lâm cũng lên giọng thiên triều “cố vấn” vua Quang Trung về thuật trị nước, vua ta chỉ gật gù khen phải.
Sắc phong này đề ngày 22 tháng 6 năm Kỷ Dậu, do Quân Cơ đại thần thảo ra, trình lên ngự lãm rồi, sau đó do thư ký trong nội các viết bằng hai thứ chữ Mãn – Hán, đóng ngự bảo (dấu của nhà vua) nguyên văn như sau:
Nguyên văn
朕惟王化遐覃,伐罪因而舍服,侯封恪守,事大所以畏天,鑒誠悃於荒陬,貰其既往,沛恩 膏於屬國,嘉與維新,賁玆寵命之頒,以訓行之率。維安南地居炎徼,開十三道之封彊,而黎氏臣事天朝,修百餘年之職貢,每趨王會,舊附方輿。自遭難以流離, 遂式微而控愬,方謂興師復國,字小堪與圖存,何期棄印委城,積弱仍歸失守,殆天心厭其薄德,致世祚訖於終淪。
爾阮光平起自西山,界斯南服,向匪君臣之分,寢成婚媾之讐,釁起交訌,情殊負固,抗顏行於倉猝,雖無心而難掩前愆,悔罪疚以湔除。願革面而自深痛艾,表箋籲切,使先猶子以抒忱,琛獻憬來,躬與明年之祝嘏,自非仰邀封爵,榮藉龍光,曷由下蒞臣氓,妥玆鳩集。
凡此陳詞以實,胥徵効順彌虔,况王者無分民,詎在版章其土宇,而生人有司牧,是宜輯寧爾邦家,爰布寵綏,俾憑鎮撫,今封爾為安南國王,錫之新印。
於戲!
有興有廢,天子唯順天而行,無貳無虞,國人咸舉國以聽,王其懋將丹款,肅矢冰競,固圉以長其子孫,勿使偪滋他族,悉心以勤於夙夜,罔令逸欲有邦,益敬奉夫明威,庶永承乎渥典,欽哉,毋替朕命。[37]
Dịch âm
Trẫm duy vương hóa hà đam, phạt tội nhân nhi xá phục, hầu phong khác thủ, sự đại sở dĩ úy thiên, giám thành khổn ư hoang tưu, thế kỳ ký vãng, bái ân cao ư thuộc quốc, gia dữ duy tân, phần tư sủng mệnh chi ban, dĩ huấn hành chi suất. Duy An Nam địa cư viêm kiếu, khai thập tam đạo chi phong cương, nhi Lê thị thần sự thiên triều, tu bách dư niên chi chức cống, mỗi xu vương hội, cựu phụ phương dư. Tự tao nan dĩ lưu ly, toại thức vi nhi khống tố, phương vị hưng sư phục quốc, tự tiểu kham dữ đồ tồn, hà kỳ khí ấn uỷ thành, tích nhược nhưng qui thất thủ, đãi thiên tâm yếm kỳ bạc đức, chí thế tộ cật ư chung luân.
Nhĩ Nguyễn Quang Bình khởi tự Tây Sơn, giới tư nam phục, hướng phỉ quân thần chi phân, tẩm thành hôn cấu chi thù, hấn khởi giao hồng, tình thù phụ cố, kháng nhan hành ư thương thốt, tuy vô tâm nhi nan yểm tiền khiên, hối tội cứu dĩ tiền trừ. Nguyện cách diện nhi tự thâm thống ngải, biểu tiên dụ thiết, sứ tiên do tử dĩ trữ thầm, thám hiến cảnh lai, cung dữ minh niên chi chúc hỗ, tự phi ngưỡng yêu phong tước, vinh tịch long quang, hạt do hạ lị thần manh, thoả tư cưu tập.
Phàm thử trần tự dĩ thực, tư trưng hiệu thuận di kiền, huống vương giả vô phân dân, cự tại bản chương kỳ thổ vũ, nhi sinh nhân hữu ti mục, thị nghi tập ninh bang gia, viên bố sủng tuy, tỉ bằng trấn phủ, kim phong nhĩ vi An Nam quốc vương, tích chi tân ấn.
Ư hí!
Hữu hưng hữu phế, thiên tử duy thuận thiên nhi hành, vô nhị vô ngu, quốc nhân hàm cử quốc dĩ thính, vương kỳ mậu tương đan khoản, tiêu thỉ băng cạnh, cố ngữ dĩ trưởng kỳ tử tôn, vật sứ bức tư tha tộc, tất tâm dĩ cần ư túc dạ, võng lệnh dật dục hữu bang, ích kính phụng thiên minh uy, thứ vĩnh thừa hồ ác điển.
Khâm tai, vô thế trẫm mệnh.
Dịch nghĩa
Trẫm vốn chỉ dùng vương hóa để trải rộng, phạt kẻ có tội nhưng vẫn tha kẻ quay về, phong cho chư hầu biết kính cẩn giữ lễ, coi việc lớn là sợ trời, xét lòng thành của kẻ nơi hoang dã, bỏ qua những chuyện cũ, đem ân ban bố cho thuộc quốc, thêm điều mới mẻ, rực rỡ để dạy dỗ người ta noi theo.
Đất An Nam ở nơi nóng nực xa xôi, mở mang ra cương vực mười ba đạo, họ Lê thần phục thiên triều, giữ việc cống lễ hơn trăm năm qua, tuân theo vương hoá, dựng nên một phương. Đến khi gặp nạn ly tán, chạy đến tố cáo, (thiên triều) đã hưng sư lấy lại nước nhưng cơ đồ cũng không giữ nổi, vứt ấn bỏ thành, yếu đuối đến nỗi mất hết, khiến cho trời cũng ghét bỏ kẻ đức mỏng, tuy nối lại mà cũng bỏ đi.
Ngươi Nguyễn Quang Bình khởi từ đất Tây Sơn, vốn dĩ mặc y phục phương nam, đối với kẻ kia không có nghĩa quân thần, chỉ có tình hôn nhân, đến khi hai bên gây hấn, tình nghĩa dứt rồi, lúc vội vã chống lại, dẫu không phải là cố ý nhưng tội lỗi không dễ xoá nhoà. Nay biết thống hối, dâng tờ biểu thiết tha, sai con làm sứ thần sang trình bày, đem đồ quí báu sang cống hiến, bản thân sang năm sẽ qua chúc thọ, chẳng phải vì mong được phong tước để được vinh quang, mà để cho thần tử đang ngơ ngác, lang thang có nơi tụ tập.
Những lời trần tình ấy quả là thành thực, tuy nơi xa xôi cũng thuận quay về, huống chi vương đạo không phân biệt ai, há lại coi chỗ này hơn chỗ khác, người sống phải có kẻ chăn dắt, kẻ hòa hợp cần được yên ổn gia đình, người nghèo được nâng đỡ, kẻ kém được vỗ về, nay phong cho ngươi làm An Nam quốc vương, ban cho ấn mới.
Than ôi!
Đời có lúc hưng lúc phế, thiên tử cứ theo mệnh trời mà làm, không ngờ vực, không sợ hãi, người trong nước tất cả đều nghe theo, để cho vương đạo tràn lan khắp cõi, truyền cho đến cháu con, không để vào tay họ khác, hết lòng hết dạ chăm chỉ sớm hôm, không trễ nải việc nước, luôn luôn kính trọng oai trời, để được thấm nhuần ơn mưa móc mãi mãi.
Khâm tai!
Chớ bỏ qua lệnh của trẫm.
Ngoài ra vua Cao Tông còn làm một bài thơ, đích thân viết tặng cho vua Quang Trung:
三藩耆武匪佳兵
昨歲安南重有征
無奈復黎黎厭德
爰教封阮阮輸城
守封彊勿滋他族
傳子孫恆奉大清
幸沐天恩欽久道
不遑日監凜持盈[38]
Dịch âm
Tam phiên kỳ võ phỉ giai binh
Tạc tuế An Nam trọng hữu chinh
Vô nại phục Lê Lê yếm đức
Viên giao phong Nguyễn Nguyễn thâu thành
Thủ phong cương vật tư tha tộc
Truyền tử tôn hằng phụng Đại Thanh
Hạnh mộc thiên ân khâm cửu đạo
Bất hoàn nhật giám lẫm trì doanh
Dịch nghĩa
Ai giỏi thắng người chẳng dụng binh?
Đánh cho biết sợ, phục tâm thành.
Họ Lê đáng xót vì trời ghét,
Nhà Nguyễn nên cho hưởng phúc lành.
Vốn đã thu này sai cháu đến,
Sang năm sẽ lại tự thân hành.
Chân thành đến vậy phiên bang hiếm,
Sao nỡ chẳng khen, đặng hiển vinh![39]
Về việc chậm trễ tại sao trước đây đã định phong vương vào tháng 9 lại phải dời lại đến cuối tháng 10 thì vẫn còn là một câu hỏi chưa có trả lời thích đáng. Theo các sử sách của Việt Nam, tất cả đều chung một luận cứ là vua Quang Trung ương ngạnh không chịu ra Thăng Long làm lễ mà bắt sứ nhà Thanh phải vào Nghệ An hoặc Phú Xuân. Đọc lại những thư từ qua lại chúng ta thấy rằng lúc đầu ông quả có ý định ra nhận phong vương tại Thăng Long vào cuối tháng 9 nhưng trên đường đi bị ngã bệnh, sự việc gấp rút đành phải thoái thác cho qua.[40]
Còn Thành Lâm thì ngay hôm 17 tháng 10 lập tức lên đường về nước, vua Quang Trung sai người thân tín là Nguyễn Hoành Khuông (阮宏匡), Tống Danh Lang (宋名郎), Lê Lương Thận (黎梁慎) dâng biểu tạ ơn cùng các lễ vật đem sang. Cũng theo sứ nhà Thanh thì khi từ giã, vua Quang Trung “chắp tay tống biệt, ra chiều bịn rịn”[41], sai con là Nguyễn Quang Thùy cùng văn võ các quan đưa tiễn đến ngoài 15 dặm, còn Ngô Văn Sở thì tiễn đến ngoài 20 dặm mới quay về.
Kèm theo tờ biểu tạ ơn là cống phẩm của nước ta bao gồm: hai mươi dật vàng, một trăm dật bạc, một trăm tấm lụa, một trăm tấm sa mỏng (羅紈 – la hoàn), ba đôi ngà voi nặng cả thảy 200 cân.
Ngoài lễ vật tạ ơn ra, vua Quang Trung còn sai bầy tôi là Trần Đăng Thiên (陳登天), Nguyễn Chỉ Tín (阮止信), Nguyễn Đề Phụng (阮提奉) ngày 22 tháng 10 đem cống vật hàng năm bao gồm bốn đôi lò hương, bình hoa bằng vàng, tất cả nặng 209 lượng, tốc hương 1915 lượng do Nguyễn Hoành Khuông dẫn đầu cùng đi với Thành Lâm qua ải Nam Quan.
Vua Cao Tông sau khi phong vương cho Nguyễn Huệ cũng sai bộ Lễ chiếu những ân điển dành cho phiên vương và phiên thuộc trong đó có việc ban lịch hàng năm là một trong những thông lệ giữa Trung Hoa và các chư hầu. Cuối năm 1789, vua Thanh sai tuần phủ Quảng Đông giao cho Tả Giang đạo đem đến cửa ải giao cho quan ta 20 cuốn lịch. Trong thời gian mấy năm qua, việc binh lửa khiến cho mùa màng thất bát, thương mại giữa nước ta và nước Tàu bị ngưng trệ (vì lệnh cấm của Thanh triều). Vua Quang Trung cũng nhân dịp này gửi thư lên Thanh triều yêu cầu bãi bỏ những lệnh cấm đoán, để việc buôn bán qua lại giữa hai bên được dễ dàng. Vua Càn Long nhận được thư của vua ta bèn giáng chỉ cho các quan nhà Thanh bình thường hóa mọi sinh hoạt giữa hai nước.
Trích Càn Long tiếp kiến vua Quang Trung- Nghiên cứu lịch sử
Năm Càn Long Thứ 54, lần ban thưởng thứ 5 có 2 cái lò hương : Trong đó 1 cái là Lư đồng xông trầm hình lục giác, 6 mặt có hình Long, Lân, Phụng và linh vật huyền thoại trong Hải Sơn Dị Thú Chí.