Trống đồng Hữu Chung (Văn hóa Đông Sơn, hiện lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Hải Dương).

Ngày 14/5/1961, trong khi đào đất làm gạch, người dân thôn Hữu Chung, xã Hà Thanh, huyện Tứ Kỳ (Hải Dương) phát hiện chiếc trống đồng, sau đó được đưa về Bảo tàng Hải Dương bảo quản, giữ gìn phục vụ công tác nghiên cứu và tham quan trưng bày từ đó đến nay.
Trống đồng Hữu Chung thuộc sưu tập trống đồng Đông Sơn là đại diện loại hình hiện vật tiêu biểu của nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng trong khu vực Đông Nam Á. Trong hàng ngàn chiếc trống được phát hiện từ trước đến nay tại Việt Nam, trống đồng Hữu Chung là chiếc trống có kiểu dáng hài hòa, kích thước lớn, đề tài trang trí đẹp và phong phú. Hoa văn trên trống đồng Hữu Chung phản ánh nhiều nét đặc trưng văn hóa của cư dân Lạc Việt. Trống đồng Hữu Chung được phát hiện tại huyện Tứ Kỳ – địa danh mà thời Hùng Vương thủ phủ bộ Dương Tuyền (Hải Dương) đã xây dựng Thành Dền làm trung tâm văn hóa cổ, nơi có nhiều cư dân sinh sống. Vì vậy, trống đồng Hữu Chung được gắn liền với không gian văn hóa cộng đồng cư dân Lạc Việt trên đất Hải Dương.
Trống đồng Hữu Chung có kích thước đường kính mặt 91,5cm, đường kính chân 97,7cm, cao: 67cm, trọng lượng 75kg. Trống có cấu tạo hài hòa gồm 3 phần chính: tang, thân và chân trống. Mỗi phần có những đặc điểm và công năng riêng cụ thể như:
* Tang trống: gồm có mặt trống và tang. Mặt trống được đúc liền chờm ra khỏi tang. Chính giữa mặt trống đúc nổi ngôi sao 12 cánh, xen  giữa các cánh sao là họa tiết hoa văn hình lông đuôi chim công. Bao quanh ngôi sao là 9 vành hoa văn: vành số 1 là những đường gấp khúc; vành số 2 và 8 là những vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến; vành số 3, số 7 và số 9 là những vạch ngắn song song; vành số 4 là đường hồi văn hình trám; vành số 5 là hình người hóa trang lông chim cách điệu đi quanh ngôi sao ngược kim đồng hồ và vành số 6 là hình chim lạc bay, được chia thành hai nhóm, mỗi nhóm 5 con, bay ngược chiều kim đồng hồ, giữa mỗi nhóm trang trí hoa văn hình trâm đối xứng nhau. Trên dìa mặt trống còn có 4 tượng con cóc bố trí cân đối nối đuôi nhau đi ngược chiều kim đồng hồ. Mặt trống không chỉ dùng để trang trí mà còn sử dụng vào việc đánh để tạo tiếng vang.
Phần tang trống, được coi là chiếc hộp cộng hưởng nhằm khuếch đại âm thanh khi đánh vào mặt trống, trên tang trống có 4  vành  hoa văn vành số 1, số 4 có trang trí các vạch ngắn song song; vành số 2, số 3 là hình Ômêga và vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến. Tiếp giáp với vành số 4 là hoa văn hình thuyền rước lễ hội được chia thành 6 nhóm.
* Thân trống: có hình trụ đứng, đây là bộ phận để nắn âm thanh. Phần trên được chia thành 8 ô, theo chiều dọc bằng dải văn vạch ngắn song song kép đan xen, vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến kép. Cứ cách 1 ô trống lại đến 1 ô có hình 5 người hóa trang lông chim đang nhảy múa (thể hiện cảnh sinh hoạt vui mừng trong đời sống, trong lễ hội). Phần dưới trang trí 2 vành hoa văn có vạch ngắn song song, xen giữa là 2 vành hoa văn vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến.
* Chân trống: được tạo nở choãi hình nón cụt, đây được coi là cửa mở để âm thanh của trống thoát ra và lan tỏa nhanh chóng, phần này không trang trí hoa văn.
Tiếp giáp nối giữa tang và thân trống là 2 đôi quai kép, trang trí hoa văn thừng tết, mỗi quai có một đường kẻ giữa thẳng xuống. Bề mặt của trống được phủ một lớp patin màu xanh xám, ở tang và thân trống có một số lỗ thủng nhỏ là dấu vết của những con kê để lại khi đúc. Có 02 lỗ thủng lớn kích thước (15 x 8cm) và (3 x 4cm). Trống đồng Hữu Chung được học giả F.Héger người Áo xếp vào loại trống H1, niên đại 2300 – 2100 năm TCN cách ngày nay.
Trên mặt và thân trống thể hiện nhiều họa tiết hoa văn trang trí phong phú, diễn tả những cảnh sinh hoạt hiện thực đương thời, được thể hiện bằng nghệ thuật biến hình và cách điệu cao. Khi nghiên cứu tìm hiểu đầy đủ và có hệ thống những hình hoa văn độc đáo này, ta có thể hiểu được một phần về đời sống vật chất, tinh thần của tổ chức xã hội thời kỳ dựng nước. Trống đồng được coi là một minh chứng lịch sử nói lên tài năng, kỹ thuật chế tạo đồ đồng thau tuyệt vời của chủ nhân đã sáng tạo ra chúng. Chính vì vậy, trống đồng Hữu Chung luôn được sự chú ý quan tâm, nghiên cứu đánh giá cao của các thế hệ học giả trong và ngoài nước, độc đáo và tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn sau trống đồng Ngọc Lũ và Hoàng Hạ đã được công nhận là Bảo vật Quốc gia, hiện đang lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử  Quốc gia Việt Nam.
Với ý nghĩa và giá trị trên nhiều phương diện của trống đồng Hữu Chung, được các nhà khoa học đánh giá là cổ vật độc đáo và tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn. Chính điều đó mà trống đồng Hữu Chung tiêu biểu cho trống đồng Hải Dương và của cả nước, là biểu tượng của nền Văn minh Việt cổ, vì vậy được Thủ tướng Chính phủ công nhận bảo vật quốc gia đợt 3 năm 2014.
Chuông Thanh Mai (Niên đại: năm 798, hiện lưu giữ tại Bảo tàng Hà Nội).
Chuông Thanh Mai do người dân tình cờ phát hiện ở Bãi Rồng, xóm Phú An, Thôn My Dương, xã Thanh Mai, huyện Thanh Oai, Hà Nội năm 1986. Trải qua gần 30 lưu giữ tại Bảo tàng Hà Nội, chiếc chuông quý này luôn luôn được bảo quản cẩn thận và trưng bày trang trọng trên khu trưng bày.
Chuông có dáng hình trụ, miệng thẳng liền với thân. Thân chuông chia làm 4 khoang lớn, phân cách nhau bởi ba đường gờ nổi. Mỗi khoang chia làm hai ô. Ô trên là hình thang cân, ô dưới là hình chữ nhật. Trong lòng mỗi ô có khắc chữ Hán. Chuông có hai núm dùng để gõ chuông, hình tròn lồng trong nền cánh sen, đúc nổi trên thân chuông.

Quai chuông đúc nổi đôi rồng, đấu lưng vào nhau, uốn cong một cách khéo léo tạo thành núm treo chuông. Rồng quai chuông đơn giản, không vảy, đầu to, không bờm, miệng ngậm tỳ xuống đỉnh chuông. Hình tượng rồng này gợi đến hình tượng rồng khắc trên tấm bia đá cổ nhất Việt Nam (bia Trường Xuân, Thanh Hóa, niên đại 618). Đỉnh chuông được tạo theo hình chỏm cầu, đúc nổi bằng nhiều cánh sen kép và nhũ đinh. Có một đường gờ nổi chạy suốt mép đỉnh chuông.

Bản minh văn khắc kín trong 8 ô, gồm 1530 chữ, là tên của rất nhiều người trong đó có cả quan chức, cho chúng ta biết được chuông do Hội Tuỳ Hỉ (một tổ chức của Phật giáo) gồm những người Hoa và người Việt đúc vào năm Mậu Dần, niên hiệu Trinh Nguyên thứ 14 ( năm 798). Danh sách những người công đức ghi trên thân chuông đều là đệ tử nhà Phật, có chung tâm đức tạo nên chiếc chuông này. Tuy chuông không ghi cụ thể của chùa nào, nhưng qua bài kệ để đọc khi thỉnh chuông chúng ta biết được đây là chuông chùa, nội dung bài kệ như sau:

 

Nguyên văn chữ Hán Phiên âm  

Dịch thơ

 

 

回 心 孕 福    

Hồi tâm dựng phúc

Quay về dựng phúc

共 造 盟 鍾  Cộng tạo minh chung Cùng đúc chuông đồng
天 遠  應 驗       Thiên viễn ứng nghiệm Chín trời vọng tiếng
地  狱聞 聲        Địa ngục văn thanh Địa ngục dung thôn
三 途 具苦 Tam đồ cụ khổ Ba đường dứt khổ
八難 消 傾 Bát nạn tiêu khuynh   Tán nạn tiêu vong
今 身假  有 Kim thân giả hữu

Thân này giả tạm

傳名萬 世 Truyền danh vạn thế Kiếp kiếp danh truyền
占 臨佛法 Chiêm lâm Phật pháp      Rước về phép Phật     
嚮 出空 Âm hưởng xuất không Chuông dội sân Không
走功一  禱 Tẩu công nhất đảo Chút tình gửi gắm,       
不 滅  無生

Bất diệt vô sinh

Sinh diệt ngoài vòng

 

Đại ý bài kệ: Chiếc chuông này được nhiều người công đức đúc nên. Danh sách những người công đức có ghi trên thân chuông. Những người này đều là đệ tử của nhà Phật, có chung tâm đức tạo nên chiếc chuông này, họ mong muốn rằng: khi tiếng chuông vang lên thì được trời, đất, thần, phật chứng giám cho chúng sinh và tiêu trừ hết khổ nạn. Phật pháp được lưu danh muôn thuở.

Nội dung minh văn có nhắc đến nhiều địa danh hành chính thời Đường, gồm có 4 huyện (An Lạc, Văn Dương, Hán Hội, Nhật Nam); 18 châu ( Tư Lăng, Nghi, Tấm, Trường, Văn, Vi, Tuy, Diêm, Quý, Kinh, Sóc, Thạch, Từ, Hạ, Ngạn, Ái, Tây Bình, Liễu); 12 phủ ( Vạn Cát, An Lạc, Long Sơn, Âm Bình, Dung Sơn, Thượng Đức, Tứ Môn, Đại Bân, Ly Thạch, Cát Xương, Hạ Tập, Nghĩa Vương). Đây là những địa danh hành chính của cả Việt Nam và Trung Quốc, góp phần nghiên cứu tổ chức đơn vị hành chính và giao thoa văn hóa thời kỳ bắc thuộc.

Ngoài ra nội dung minh văn còn nhắc đến nhiều các chức danh quan lại đương thời như: Huyện úy, Tả kim ngô vệ, Chiết xung đô úy, Phán quan, Thượng trụ quốc, Kinh lược tiên phong binh mã sứ, Thứ sử, Triều nghị lang, Du dịch sứ…. Lần đầu tiên thấy xuất hiện đơn vị đo lường khối lượng của người Việt “90 cân Nam”. Điều này góp phần chứng minh cho quan điểm: chuông được đúc trên đất Việt và được lưu truyền, sử dụng trên đất Việt.

Chữ khắc vuông vức, đường nét rõ ràng, tiêu biểu cho loại chữ thời Đường- Tống mà các đời sau gọi kiểu chữ này là chữ “phỏng Tống”. Trong văn ngữ, đôi chỗ sử dụng từ ngữ của người Việt.

Qua bố cục bài minh văn và tự dạng, ta biết được văn bản được khắc cùng một thời điểm và là văn bản khắc lần đầu. Hoàn toàn không có hiện tượng khắc lại hoặc khắc thêm xen kẽ về sau. Niên đại của văn bản khắc trên thân chuông và niên đại của chuông là một, hoàn toàn phù hợp với dòng lạc khoản tuyệt đối trên chuông là: ngày 20 tháng 3 đủ năm Mậu Dần, niên hiệu Trinh Nguyên 14 ( tức năm 798).

Chuông được công nhận là 1 trong 10 kỷ lục Văn hóa Phật giáo Việt Nam được công nhận năm 2006 với danh hiệu là: Quả chuông đồng cổ nhất Việt Nam do Giáo hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh và Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam công bố.

Chuông Thanh Mai là cổ vật độc bản, được xem là có niên đại sớm nhất cho đến nay được phát hiện ở Việt Nam (năm 798).

Chuông có hình dáng và minh văn độc đáo, không giống với bất cứ chuông nào trong hệ thống chuông chùa ở Việt Nam, là nguồn sử liệu có ý nghĩa cho việc nghiên cứu và tìm hiểu Phật giáo Việt Nam thế kỷ thứ VIII.

Họa tiết trang trí trên thân chuông thể hiện đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc và nghệ thuật đúc đồng thời bấy giờ.

Chuông có bản minh văn rất cụ thể, là nguồn sử liệu chân thực, ý nghĩa đối với việc nghiên cứu, tìm hiểu xã hội người Việt thời Bắc thuộc.

Hiện nay chuông Thanh Mai đang được trưng bày và giới thiệu trong hệ thống trưng bày của Bảo tàng Hà Nội. Chuông Thanh Mai đã tham gia trưng bày tại nhiều địa điểm trong nước, được giới thiệu trong nhiều công trình nghiên cứu khoa học về văn hóa, lịch sử Việt Nam ở trong và ngoài nước.

Bảo vật quốc gia – chuông Thanh Mai là niềm vinh dự và tự hào, cũng là trách nhiệm của mỗi cán bộ viên chức Bảo tàng Hà Nội. Hy vọng trong những năm tiếp theo, nhiều hiện vật quý của Bảo tàng Hà Nội tiếp tục được công nhận là bảo vật quốc gia.

Tám mưoi hai bia Tiến sĩ Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hà Nội (Niên đại: 1484 – 1780, hiện lưu giữ tại Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Văn Miếu – Quốc Tử Giám, thành phố Hà Nội).
Bia “Khôn Nguyên Chí Đức Chi Bi” (Niên đại: thế kỷ XV, hiện lưu giữ tại Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Lam Kinh, tỉnh Thanh Hóa).
Bia Thủy Môn Đình (Niên đại: năm 1670, hiện lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Lạng Sơn).
Tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay chùa Đào Xuyên (Niên đại: thế kỷ XVI, hiện lưu giữ tại chùa Đào Xuyên, xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội).
Bộ tượng Di Đà Tam Tôn chùa Thầy (Niên đại: đầu thế kỷ XVII, hiện lưu giữ tại chùa Thầy, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội).
Tượng Phật giáo thời Tây Sơn chùa Tây Phương (Niên đại: cuối thế kỷ XVIII, hiện lưu giữ tại chùa Tây Phương, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội).
Ekamukhalinga/Linga có một đầu thần Siva (Niên đại: đầu thế kỷ VIII, hiện lưu giữ tại Ban Quản lý di tích và du lịch Mỹ Sơn, tỉnh Quảng Nam).
Lan can thành bậc (Niên đại: đầu thế kỷ XII, hiện lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Nam Định).
Máy bay Mic 21 số hiệu 4324 (Hiện vật thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hiện lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam).
Bản đồ Quyết tâm chiến dịch Hồ Chí Minh (Hiện vật trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, hiện lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam).

Anthony NGUYEN

(Tổng Hợp)

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.