(tiếp Phần II)

1. HỌ KHÚC DẤY NGHIỆP VÀ HỌ NGÔ DỰNG NGHIỆP (907-959)

Lợi dụng trong khi năm họ tranh giành nhau bên Trung Quốc, dân chúng bên ta bèn cử Khúc Thừa Dụ (906-907) làm Tiết độ sứ để cai trị Tĩnh Hải Quân. Thừa Dụ quê ở Hồng Châu (Ninh Giang – Hải Hưng nay) là nhà hào phú có tính khoan hòa và thương người. Trung Quốc phải chịu nhận. Thừa Dụ chết, Khúc Hạo (907-917) lên thay làm Tiết độ sứ rồi lập ra lộ, phủ, châu, xã ở các nơi, đặt quan lại . Sau Khúc Hạo là Khúc Thừa Mỹ (917-923). Năm 923, nhà Nam Hán chiếm lại Tĩnh Hải Quân. Năm 931, Dương Diên Nghệ là tướng cũ của Khúc Hạo nổi lên, tự xưng Tiết độ sứ. Được sáu năm, bị nha tướng là Kiều Công Tiễn giết và cướp quyền. Khi ấy có Ngô Quyền (quê ở Đường Lâm, Sơn Tây) là con rể Dương Diên Nghệ đang cai trị Ái Châu, đem quân ra đánh Kiều Công Tiễn. Tiễn cầu cứu nhà Nam Hán. Thái tử Hoằng Thao đem quân sang đánh Ngô Quyền, bị đại bại trên sông Bạch Đằng (938).

Tiền Ngô Vương (939-945). Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở cổ Loa, đặt quan chức, chế triều nghi, nhưng chưa định quốc hiệu và phân bố lãnh vực. Được sáu năm thì mất. Em rể là Dương Tam Kha (935- 950) lên tiếm ngôi. Hai con Ngô Quyền là Ngô Xương Văn và Ngô Xương Ngập trở lại hạ được Dương Tam Kha rồi cùng cai trị nước, sử gọi là Hậu Ngô Vương (950- 956). về cương vực nhà Ngô: “Ngô Quyền chỉ có quyền lực ở các châu mà cư dân là con cháu người Lạc Việt, tức miền trung du và miền đồng bằng Bắc Bộ cùng miền trung du và miền đồng bằng Thanh Nghệ, còn miền thuợng du là các châu ky my của nhà Đuờng trước kia thì có lẽ còn do các tù truởng giữ mà độc lập” .

2. CƯƠNG VỰC BỊ CHIA CẮT DƯỚI THỜI THẬP NHỊ SỨ QUÂN (945-967)

Từ khi Dương Tam Kha tiếm vị, thổ hào các nơi xướng lên độc lập tự xưng sứ quân. Khi có Hậu Ngô rồi, các sứ quân vẫn không về thần phục. Con cháu nhà Ngô yếu thế, trở thành như một sứ quân. Cương vực bị chia cắt, dân tình đói khổ. Sau đây là 12 sứ quân với vùng cát cứ:

1. Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều (Khoái Châu, Hưng Yên).
2. Đỗ Cảnh Thạc giữ Đỗ Động Giang (huyện Thanh Oai).
3. Trần Lãm giữ Bô” Hải Khẩu (Kỳ Bố, Thái Bình).
4. Kiều Công Hãn giữ Phong Châu (huyện Bạch Hạc).
5. Nguyễn Khoan giữ Tam Đái (phủ Vĩnh Tường).
6. Ngô Nhật Khánh giữ Đường Lâm (Phúc Thọ, Sơn Tây).
7. Lý Khuê giữ Siêu Loại (Thuận Thành).
8. Nguyễn Thủ Tiệp giữ Tiên Du (Bắc Ninh).
9. Lũ Đường giữ Tế Giang (Văn Giang, Bắc Ninh).
10. Nguyễn Siêu giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Đông).
11. Kiều Thuận giữ Hồi Hồ (Cẩm Khê, Sơn Tây).
12. Phạm Bạch Hổ giữ Đằng Châu (Hưng Yên) .

3. CƯƠNG VỰC DƯỚI THỜI ĐINH – LÊ, QUỐC HIỆU ĐẠI CỒ VIỆT 86 NĂM (968-1054)

Đinh Tiên Hoàng (968-979), đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư, “chia nước làm 10 đạo, hiện nay không rõ danh hiệu và vị trí các đạo là thế nào. Duy nhất sử cũ vẫn chép tên các châu đời Đường, như Ái Châu, Hoan Châu, Phong Châu, thì biết rằng danh hiệu các châu đời Đường bấy giờ vẫn được dùng” . Nhà Tống chỉ phong cho Đinh Tiên Hoàng là Giao Chỉ quận vương.

Đinh Phế Đế (979-980) tức Đinh Tuệ lên ngôi mới có sáu tuổi.

Lê Đại Hành (980-1005) tức Lê Hoàn, thay ngôi nhà Đinh, “đổi 10 đạo làm lộ, phủ, châu”. Nay vẫn chưa tìm ra danh hiệu và vị trí những đơn vị hành chính đó, mà các tên châu huyện đời Đường còn được nhắc đến trong sử cũ. Năm 982, Lê Hoàn đi đánh Chiêm Thành, phải qua kênh Xước ở Thanh Hóa và kênh Sắt ở Nghệ An (đó là kênh mà sau này Nguyễn Trường Tộ đào nắn lại cho dễ thông thương hơn). Nhà Tống cũng chỉ phong cho Lê Đại Hành là Giao Chỉ quận vương, rồi gia phong là Nam Bình Vương, cố ý coi nước ta là quận Giao Chỉ hay An Nam đô hộ phủ mà thôi.

Tiếp nối Lê Đại Hành Là Lê Trung Tông (1005) rồi Lê Long Đĩnh (1005 – 1009), cương vực vẫn tới Hoành Sơn nhưng Chiêm Thành phải sang triều cống. Quốc hiệu Đại Cồ Việt vẫn tồi tại.

Dân số nước Đại cồ Việt, ở niên đại 968, có khoảng 2.000.000 người.

4. CƯƠNG VỰC VÀ QUỐC HIỆU DƯỚI ĐỜI LÝ, NƯỚC ĐẠI VIỆT, 748 NĂM (1054-1802)

Lý Thái Tổ tức Lý Công uẩn (1010-1028) tiếp ngôi nhà Lê, dời đô về La Thành, lấy tên mới là thành Thăng Long, “chia nước làm 24 lộ, gọi Hoan Châu và Ái Châu là trại” , mới chắc chắn có tên 12 lộ do KĐVS ghi chép:

Thiên Trường Hoàng Giang Thanh Hóa
Khoái Hồng Kiến Xương
Trường Yên Hải Đông Bắc Giang
Quốc Oai Long Hưng Diễn Châu
Còn 12 lộ nữa thì Đào Duy Anh phỏng tính là:
Phủ Đô Hộ Phủ ứng Thiên Phủ Phú Lương
Phủ Thiên Đúc Phủ Nghệ An Châu cổ Pháp
Châu Phong Châu Lạng Châu Chân Đăng
Châu Bố Chính Châu Địa Lý Châu Ma Linh

Hoàng Xuân Hãn đã định được vị trí các châu lộ ở phía bắc và Đào Duy Anh đã phỏng định vị trí các châu phủ lộ còn lại . Ngoài lộ, châu, phủ nhà Lý còn chia ra các đơn vị hành chính là hương, giáp, trại, động.
Dân số” nước Đại Việt, ở niên đại 1054, có khoảng 2.200.000 người.
(Bản đồ 16)

Lý Thái Tông (1028-1054) đem quân chinh phạt Chiêm Thành (1044) tiến chiếm quốc đô Phật Thệ (làng Nguyệt Bầu, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên).

Lý Thánh Tông (1054-1072) khi lên ngôi liền đổi quốc hiệu là Đại Việt. Năm 1069, đem quân đánh Chiêm Thành. Chế Củ xin chuộc tội bằng ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính (sau là Quảng Bình, Quảng Trị).

Lý Nhân Tông (1072-1127) sai Lý Thuợng Kiệt đi trấn giữ (1076) ở phía bắc và đi kinh lý ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính ở phía nam.

Sau đó là các vua Lý Thần Tông (1128-1138)
Lý Anh Tông (1138-1175)

Năm 1164, nhà Tống đổi Giao Chỉ quận làm An Nam quốc, Lý Anh Tông là vua đầu tiên của nước ta được phong là An Nam quốc vương. Vua cuối cùng nhận phong tước hiệu này là Nguyễn Tây Sơn cảnh Thịnh (1792-1802).

Lý Cao Tông (1176-1210)
Lý Huệ Tông (1211-1225)
Lý Chiêu Hoàng (1225)

Cương vực và quốc hiệu vẫn thế.

5. CƯƠNG VỰC ĐẠI VIỆT DƯỚI ĐỜI TRẦN VÀ ĐỜI HỒ(1225-1413)

Trần Thái Tông (1225-1258) “chia nước ra làm 12 lộ”, đặt xã quan để cai trị ở địa phương. Nhưng sử cũ lại chép tới 15 lộ:
Thiên Trưòng Hồng Lạng Giang
Tam Giang An Khang Truòng Yên
Khoái Tam Đới Bắc Giang
Long Hưng Diễn Sơn Nam
Quốc Oai An Tiêm Đà Giang

Sách An Nam Chí Lược chép 15 lộ khác, trong đó có 9 lộ mà danh sách trên thiếu. Nếu cộng lại ta sẽ có tên 24 lộ. Sau đây là 9 lộ bổ túc:

Đại La Thành
Quy Hóa Giang
Tuyên Hóa Giang
Lạng Châu
Đại Hoàng
Nam Sách Giang
Như Nguyệt Giang
Nghệ An
Phủ Bố Chính Châu

Năm 1397, Lê Quý Ly làm thái sư, đổi các lộ phủ ra làm trấn: Thanh Hóa làm trấn Thanh Đô, Quốc Oai làm trấn Quảng Oai, Đà Giang làm trấn Thiên Hưng, Nghệ An làm trấn Lâm An, Trường Yên làm trấn Thiên Quan, Diễn Châu làm trấn Vọng Giang, Lạng Sơn phủ (truóc là Lạng Sơn) làm trấn Lạng Sơn, Tân Bình phủ (trước là Bố Chính Châu) làm trấn Tân Bình… Quý Ly chiếm thêm được hai châu Đại Chiêm và Cổ Lũy của Chiêm Thành, đặt làm bốn châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, gộp lại làm lộ Thăng Hoa, tức là miền Quảng Nam, Quảng Ngãi ngày nay
(Bản đồ 17)

0. Lộ Đông Đô
1. Lộ Bắc Giang
2. Lộ Lạng Giang
3. Lộ Lạng Sơn
4. Phủ lộ Thiên Truờng (Sơn Nam)
5. Lộ Long Hưng
6. Lộ Khoái Châu
7. Phủ lộ Kiến Xương
8. Lộ Hoàng Giang,
Phủ Kiến Hưng
9. Trấn Thiên Quan
10. Phủ lộ Tân Hưng
11. Lộ Hải Đông
12. Phủ lộ Kiến Xương
13. Trấn Quảng Oai
14. Trấn Thiên Hưng
15. Trấn Thanh Đô
16. Trấn Vọng Gỉang
17. Trấn Tây Bình
18. Trấn lộ Thanh Hóa
19. Lộ Thăng Hoa

Sau khi Hồ Quý Ly chiếm ngôi nhà Trần liền đặt tên nuớc là Đại Ngu rồi đổi phủ Thanh Hóa (trấn Thanh Đô) làm phủ Thiên Xương, phủ Diễn Châu (trấn Vọng Giang) làm phủ Linh Nguyên, phủ Kiến Xương làm phủ Kiến Ninh . Duyên cách thật phức tạp và các danh xưng lộ – phủ – trấn vẫn còn xen kẽ chưa phân biệt rạch rồi.(Bản đồ 18)

Danh sách các vua triều Trần sau Trần Thái Tông:

Trần Thánh Tông (1258-1278)
Trần Nhân Tông (1279-1293)
Trần Anh Tông (1293-1314)
Trần Minh Tông (1314-1329)
Trần Hiến Tông (1329-1341)
Trần Dụ Tông (1341-1369)
Trần Nghệ Tông (1370-1372)
Trần Duệ Tông (1374-1377)
Trần Phế Đế (1377-1388)
Trần Thuận Tông (1388-1398)
Trần Thiếu Đế (1398-1400)
Nhà Hồ thoán ngôi với hai đời vua:
Hồ Quí Ly (1400-1401)
Hồ Hán Thương (1401-1407)
Nhà Trần trở lại gọi là Hậu Trần với hai đời vua:
Giản Định Đế (1407-1409)
Trần Quí Khoách (1403-1413)
Dân số Đại Việt ở niên đại 1407 có khoảng 3.129.500 người.

6. CƯƠNG VỰC NƯỚC TA DƯỚI THỜI THUỘC MINH (1414-1427)
Vua Nhà Minh sai Trương Phụ và Mộc Thạnh đem quân sang chiếm nước ta rồi lại gọi nước ta là Quận Giao Chỉ và chia lãnh thổ nước ta ra làm 15 phủ với 5 châu lớn, đó là:
(Bản đồ 19) và (Bản đồ 20)

1. Phủ Giao Châu 11. Phủ Lạng Sơn
2. Phủ Bắc Giang 12. Phủ Tân Bình
3. Phủ Lạng Giang 13. Phủ Diễn Châu
4. Phủ Tam Giang 14 Phủ Nghệ An
5. Phủ Kiến Bình 15. Phủ Thuận Hóa
6. Phủ Tân Yên 16. Châu Thái Nguyên
7. Phủ Kiến Xương 17. Châu Tuyên Hóa
8. Phủ Phụng Hóa 18. Châu Gia Hưng
9. Phủ Thanh Hóa 19. Châu Qui Hóa
10. Phủ Trấn Man 20. Châu Quảng Oai

Đại khái “họ theo tên các lộ trấn phủ châu của thời Trần – Hồ, duy có thay đổi như sau: đổi phủ Long Hưng làm phủ Trấn Man, phủ Kiến Hưng làm phủ Kiến Bình, phủ Thiên Trường làm phủ Phụng Hóa, phủ Tân Hưng làm phủ Tân Yên, châu Quốc Oai làm châu Tuyên Man (?), châu Tuyên Quang làm châu Tuyên Hóa” .

Ở địa phương thì nhà Minh chia ra phường, tương, lý, giáp, “ở chỗ thành phố thì gọi là phường; ở chung quanh thành phố thì gọi là tương, ở nhà quê thì gọi là lý. Lý lại chia ra giáp. Cứ 110 hộ làm 1 lý và 10 hộ làm 1 giáp. Lý thì có lý trưởng, thế giáp thì có giáp thủ. Mỗi một lý, một phuòng hay một tương, có một quyển sách để biên tất cả số đinh, số điền vào đấy… ở đầu quyển sách lại có cái địa đồ” . (Bản đồ 21)

 

7. CƯƠNG VỰC ĐẠI VIỆT DƯỚI TRlỀU LÊ (1428-1527)

Lê Thái Tổ (1428-1433) thắng quân Minh rồi đóng đô ở Thăng Long khi ấy gọi là Đông Đô (gồm 2 huyện Quảng Đức và Vĩnh Xương). Năm 1430, đổi Đông Đô là Đông Kinh (từ đó người Tây phương phiên là Tongkinh hay Tonkin), và đổi Tây Đô (Lam Sơn) thành Tây Kinh. Lại chia cả mước làm 5 đạo gồm 19 trấn hay lộ:

1. Bắc Đạo (Lạng Giang, Bắc Giang, Thái Nguyên).
2. Tây Đạo (Tuyên Quang, Hưng Hóa, Gia Hưng, Tam Giang).
3. Đông Đạo (An Bang, Hồng Sách Thượng, Hồng Sách Hạ).
4. Nam Đạo (Ly Nhân, Khoái Châu, Tân Hưng, Kiến Xương, Thiên Truờng).
5. Hải Tây Đạo (Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa). Đạo này mới đặt năm 1428, bốn đạo trên đặt từ thời chống quân Minh.

Lê Thái Tông (1434- 1442), Lê Nhân Tông (1443- 1459), vẫn giữ cách phân bổ hành chính như trên.

Lê Thánh Tông (1460-1497) là một vị vua anh minh, đã nâng cao phẩm chất văn hóa và đạo lý cho nhân dân, lại mở mang thêm bờ cõi và tổ chúc quản trị lãnh thổ rất chu đáo. Năm 1466, Thánh Tông chia nước ra làm 12 đạo hay thừa tuyên:

1. Thanh Hóa
2. Nghệ An
3. Thuận Hóa
4. Thiên Trường
5. Nam Sách
6. Quốc Oai
7. Bắc Giang
8. An Bang
9. Hưng Hóa
10. Tuyên Quang
11. Thái Nguyên
12. Lạng Sơn

Năm 1471, đặt thêm thừa tuyên Quảng Nam, đưa biên giới nước ta tới núi Đá Bia trên Đèo Cả.
Năm 1490, lập bản đồ Hồng Đức để tổng kết tình hình phân bố lãnh thổ và vẽ bản đồ toàn quốc cũng như từng thừa tuyên.
Sau đây là danh sách Kinh Đô và các đạo thừa tuyên với số phủ, châu, huyện:
Trung Đô có phủ Phụng Thiên và 2 huyện.

1. Sơn Nam gồm 11 phủ, 42 huyện.
2. Kinh Bắc gồm 4 phủ, 20 huyện.
3. Sơn Tây gồm 4 phủ, 24 huyện.
4. Hải Dương gồm 3 phủ, 14 huyện.
5. Yên Bang (sau là Quảng Yên) gồm 1 phủ, 3 huyện, châu.
6. Lạng Sơn gồm 1 phủ, 6 châu.
7. Ninh Sóc (tức Thái Nguyên) gồm 3 phủ, 8 huyện, 6 châu.
8. Tuyên Quang gồm 1 phủ, 2 huyện, 5 châu.
9. Hưng Hóa gồm 3 phủ, 17 châu.
10. Thanh Hóa gồm 4 phủ, 16 huyện, 4 châu.
11. Nghệ An gồm 4 phủ, 27 huyện, 3 châu.
12. Thuận Hóa gồm 2 phủ, 7 huyện, 3 châu.
13. Quảng Nam gồm 3 phủ, 9 huyện.
(Bản đồ 22)

Năm 1490, đổi tên thừa tuyên làm xứ. Như vậy cả nước có 13 xứ, 52 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 37 phường, 6.851 xã, 322 thôn, 637 trang, 40 sách, 40 động, 30 nguyên, 30 trường. Mỗi xã thường không có quá 500 hộ, khi quá số này khoảng 100 hộ, lại chia làm 2 xã .
Dân số Đại Việt ở niên đại 1490 có khoảng 4.000.000 người.
Các đời vua sau Lê Thánh Tông:
Lê Hiến Tông (1497-1504)
Lê Túc Tông (1504)
Lê Uy Mục (1505-1509)
Lê Tương Dực (1510-1516)
Lê Chiêu Tông (1516-1522)
Lê Cung Hoàng (1522-1527)

Các vua này vẫn giữ nền tảng hành chính như cũ. (Bản đồ 23)

8. CƯƠNG VỰC ĐẠI VIỆT DƯỚI THỜI NAM BẮC TRlỀU (1528-1592)

Năm 1527, Mạc Đăng Dung thoán ngôi nhà Lê. Cựu thần nhà Lê không chịu: Nguyễn Kim và Trịnh Kiểm suy tôn Lê Trang Tôn lên ngôi từ năm 1533 bên đất Lào, rồi đem quân về lấy lại Nghệ An và Thanh Hóa. Trong thời gian trên 60 năm, từ Thanh Hóa vào Nam thuộc về nhà Lê, gọi là Nam Triều. Từ Sơn Nam ra Bắc thuộc về nhà Mạc, gọi là Bắc Triệu.
Nam Triều có các vua:

Lê Trang Tông (1533-1548)
Lê Trung Tông (1548-1556)
Lê Anh Tông (1556-1573)
Lê Thế Tông (1573-1599)
Bắc Triều có các vua:
Mạc Đăng Dung (1527-1529)
Mạc Đăng Doanh (1530-1540)
Mạc Phúc Hải (1541-1546)
Mạc Phúc Nguyên (1546-1561)
Mạc Mậu Hợp (1562-1592).

9. CƯƠNG VỰC ĐẠI VIỆT DƯỚI THỜI TRỊNH NGUYỄN PHÂN TRANH (1600-1771)

Năm 1545, Nguyễn Kim chết, con rể là Trịnh Kiểm muốn giữ hết quyền bèn cho Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa (1588) nhưng buộc vẫn thường phải về chầu vua Lê và đem binh ra giúp họ Trịnh để dứt nhà Mạc. Năm 1593, Trịnh Tùng có sự tiếp tay của Nguyễn Hoàng lấy lại Thăng Long nhưng vẫn muốn giữ Nguyễn Hoàng không cho về hẳn Thuận Hóa. Mãi năm 1600, Nguyễn Hoàng mới trốn được vào Nam và mưu tính lập căn cứ lâu dài chống lại họ Trịnh. Từ đó, các chúa Nguyễn tìm cách phát triển lãnh thổ cả về phía nam lẫn phía tây và phía biển Đông trên các quần đảo xa xôi nữa.

Sau đây là các đời chúa Nguyễn:

Nguyễn Hoàng tức Chúa Tiên (1558-1613) tổ chức cai trị thêm từ đèo Cù Mông tới núi Đá Bia, lập phủ Phú Yên hồi năm 1611

Nguyễn Phước Nguyên tức Chúa Sãi (1613-1635) hình như có gả “công nữ” Ngọc Vạn cho Chey Ghetta II, vua Chân Lạp hồi 1619.

Nguyễn Phước Lan tức Chúa Thượng (1635-1648) tổ chức cai trị và khai khẩn từ núi Đá Bia tới sông Phan Rang hồi năm 1635.

Nguyễn Phước Tần tức Chúa Hiền (1648-1687) cho quân sang U Đông và Nam Vang để cản ngăn việc quân Xiêm chiếm đóng hồi 1658-1672, lại cho người Minh Hương đến khẩn hoang ở Mỹ Tho và Biên Hòa hồi 1679. (Bản đồ 24)

Nguyễn Phước Trăn tức Chúa Ngãi (1687-1691) cho quân chinh phạt nguời Minh Hương là Hoàng Tiến hồi năm 1689.

Nguyễn Phước Chu tức Chúa Minh (1691-1725) “đặt phủ Bình Thuận, vẫn để vua Chiêm cai trị người Chiêm như cũ” hồi năm 1697. Năm 1698 phái Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý miền Nam, đăt phủ Gia Đinh và hai huyện Tân Bình (Sài Gòn), Phước Long (Biên Hòa).

Năm 1708, chúa cho Mạc Cửu làm tổng binh trấn Hà Tiên.

Nguyễn Phước Trú tức Chúa Ninh (1691-1738)đặt chức Điều Khiển để coi việc quân toàn miền Nam.

Nguyễn Phước Khoát tức Chúa Võ (1738-1765) hoàn chỉnh việc chia cắt phủ huyện trên toàn cõi miền Nam. Năm 1744, Đàng Trong chia ra làm 12 dinh và 1 trấn

Chính dinh (Phú Xuân).

  1. Cựu dinh (Ái Tử, Quảng Trị).
  2. Quảng Bình dinh tục gọi dinh Trạm.
  3. Lưu Đồn dinh cũng gọi dinh Mười (Võ Xá, Quảng Bình).
  4. Bố Chính dinh tục gọi dinh Ngói.
  5. Quảng Nam dinh tục gọi dinh Chiêm.
  6. Phú Yên dinh.
  7. Bình Khang dinh (sau là Khánh Hòa).
  8. Bình Thuận dinh.
  9. Trấn Biên dinh (sau là Biên Hòa)
  10. Phiên Trấn dinh (sau là tỉnh Gia Định).
  11. Long Hồ dinh (sau là Vĩnh Long và An Giang).
  12. Hà Tiên trấn.

Dân số Đàng Trong, ở niên đại 1750, có khoảng 1.500.000 người.

Nguyễn Phước Thuần tức Chúa Định (1765-1776) sai Nguyễn Cửu Đàm giải phóng Cao Miên khỏi tay quân Xiêm chiếm đóng (1772). Đầu năm 1776, quân Tây Sơn vào chiếm miền Nam, sau khi làm chủ Qui Nhon[1].

Nguyễn Anh (1776-1802) tái chiếm Gia Định từ tay Tây Sơn, xây thành Bát Quái rồi theo gió mùa lần hồi lấy lại Phú Xuân và cả Đàng Ngoài.

(Bản đồ 25)

10. CƯƠNG VỰC ĐẠI VIỆT DƯỚI THỜI TÂY SƠN (1771-1802)

Có lẽ chính quyền nuớc ta chưa bao giờ phân tán như trong thời gian 30 năm này, ngoại trừ thời Thập Nhị Sứ Quân. Năm 1771, anh em Tây Sơn dấy binh rồi chiếm thành Qui Nhơn. Năm 1774, chúa Trịnh Sâm sai Hoàng Ngũ Phúc vào chiếm Phú Xuân. Chúa Định cùng Nguyễn Ánh chạy vào Nam. Năm 1776, Tây Sơn vào chiếm Nam Bộ. Từ đó đến năm 1778, Nam Bộ bị giành giật bảy tám lần giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Năm 1786, Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ lấy Thuận Hóa, rồi thừa thắng đem quân ra lấy Bắc Hà với danh nghĩa diệt Trịnh phù Lê. Trịnh Khải tự tử, chấm dứt nghiệp chúa của họ Trịnh kéo dài 216 năm (1576-1786) với 10 đời chúa là:

Trịnh Tùng (1570-1670)

Trinh Tráng (1623-1657)

Trịnh Tạc (1657-1682)

Trịnh Căn (1682-1709)

Trịnh Cương (1709-1729)

Trịnh Giang (1729-1740)

Trịnh Doanh (1740-1767)

Trịnh Sâm (1767-1782)

Trịnh Cán (1782)

Trịnh Khải (1783-1786).

Lấy được Bắc Hà rồi, nhà Tây Sơn phân quyền lại: Nguyễn Nhạc làm Trung ương Hoàng Đế đóng đô ở Qui Nhon, Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương ở đất Gia Định, Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương ở đất Thuận Hóa, lấy đèo Hải Vân làm giới hạn. Riêng nhà Tây Sơn đã chia làm “ba nuớc”. Nhưng Nguyễn Lữ ở Gia Định thì không bao giờ vững và Nguyễn Ánh vẫn tự coi là chúa chính thống, còn Quy Nhơn và Thuận Hóa thì hiềm khích, có lúc Nguyễn Huệ đã kéo quân vào đánh Nguyễn Nhạc. Trong khi ấy, vua Lê còn thoi thóp ở Thăng Long và dùng Trịnh Bồng làm chúa. Lên được tấm bản đồ phân ranh hành chính của nước ta trong thời kỳ lắm vua nhiều chúa này thật không dễ[2].(Bản đồ 26)

Năm 1787, Nguyễn Huệ dứt bỏ nhà Lê nhưng vẫn đặt Giám quốc “để giữ tông miếu tiền triều”. Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc xin cầu viện. Nhà Lê làm vua cả thảy được 360 năm (1428-1788). Tiếp theo Lê Thế Tông (đã chép ở một đoạn trên) là các vua:

Lê Kính Tông (1600-1619).

Lê Thần Tông (1619-1643) lần thứ nhất.

Lê Chân Tông (1643-1649).

Lê Thần Tông (1649-1662) lần thứ hai.

Lê Huyền Tông (1663-1671).

Lê Gia Tông (1672-1675).

Lê Hi Tông (1676-1705).

Lê Dụ Tông (1706-1729).

Lê Duy Phương (1729-1732).

Lê Thuần Tông (1732-1735).

Lê Ý Tông (1735-1740).

Lê Hiển Tông (1740-1786).

Lê Mẫn Đế (1787-1788) tức Chiêu Thống.

Đó là những vị vua ngồi làm vì, còn quyền bính đều trong tay họ Trịnh quyết đoán. Họ Trịnh suy thì nhà Lê cũng tàn.

Dân số Đàng Ngoài, ở niên đại 1750, có khoảng 4.000.000 người.

Quang Trung (1788-1792). Khi được tin quân Thanh mượn tiếng cứu Lê để xâm chiếm nước ta, Nguyễn Huệ tức vị xưng đế rồi đem quân ra Bắc để phá quân Thanh. Tôn Sĩ Nghị bỏ hết ấn tín mà chạy (1789). Thắng mà không kiêu, Nguyễn Huệ biết lượng sức mình đối với Trung Quốc to gấp mấy chục lần nước ta, nên tạm hoãn binh và xin cầu phong. “Vua nhà Thanh bèn sai sứ sang phong cho Quang Trung làm An Nam Quốc Vương[3]. Đó là tuóc hiệu mà “thiên triều” vẫn dùng để phong cho vua nuớc ta. Tuy ta tự xưng nước là Đại Việt nhưng Trung Quốc chỉ gọi ta là An Nam. Trên danh nghĩa, tước hiệu An Nam Quốc Vương là làm vua toàn quốc từ Nam chí Bắc, song thực tế thì lúc đó Nguyễn Ánh đã làm chủ Nam Bộ và Trung ương Hoàng Đế (tức Nguyễn Nhạc) vẫn còn làm chủ ở phía Nam Trung Bộ tới đèo Hải Vân.

Cảnh Thịnh (1792-1802) tức Nguyễn Quang Toản, lên nối ngôi cha, còn nhỏ tuổi không làm được gì, chứng kiến từ thất trận này đến thất trận khác, từ Nam ra Bắc và chỉ tồn tại được 10 năm. (Bản đồ 27) Và (Bản đồ 28)

Nguyễn Đình Đầu

[1] Phan Khoang, Xứ Đàng Trong 1558-1777. NXB Khai Trí, Sài Gòn, 1970. Tr. 131-130

[2] Lê Thành Khôi, Le VietNam, histoire et civilisation. Les editions de Minuit. Paris, 1955. Bản đồ Le Đạí Việt en 1790, trang 528.

[3] Trần Trọng Kim, sdd, tr. 376.

 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.