Hình minh họa hoa sen trong tạp chí thực vật học Curtis’s, số thứ 21, năm 1805

Loài hoa sen gắn liền với văn hóa của người Ai Cập cổ đại với loài hoa sen trắng, sen hồng mà dân mình thích bơi thuyền ra đầm chụp ảnh có họ hàng rất xa. Sen Ai Cập là loại hoa bản xứ của Trung và Bắc Phi, và ngoài màu trắng ra còn có màu xanh nhức mắt. Những bông sen xanh này hé nở vào lúc mặt trời mọc và khép cánh lúc chiều tà, nhường sàn diễn cho loài sen trắng, và lặp lại chu kỳ đó vào sáng hôm sau. Một vòng đời của hoa sen kéo dài khoảng ba ngày.

Khoảng 5000 năm trước, hoa sen bắt đầu trở thành một phần không thể tách bỏ trong tín ngưỡng Ai Cập. Đẹp thôi chưa đủ, vòng đời bí hiểm của hoa sen khiến nó được liên tưởng với dòng sông Nile hàng năm bồi đắp phù sa. Hoa sen xanh được vinh dự xuất hiện trên phù hiệu của Thượng Ai Cập (Upper Egypt,) trong khi cây cói (papyrus) là biểu tượng cho Hạ Ai Cập (Lower Egypt). Khi hai vương quốc sáp nhập vào khoảng 3000 năm trước Công nguyên, hai loài cây thiêng cũng được hợp nhất trong ngôi đền của vua Khafre.

 

Hoa sen xanh của Ai Cập

 

Không chỉ gắn liền với sự phồn thực của sông Nile, hoa sen còn liên quan tới thần mặt trời Ra và Orisis – hai trong số các vị thần Ai Cập quyền năng nhất. Cũng như Ra sinh ra từ bóng tối (Nu), đem đến sự sống và lại “chết đi” tạm thời, hoặc như Orisis hồi sinh nhờ thần chú của Isis rồi quay về cai quản địa ngục, hoa sen xanh dần khoác thêm những lớp vỏ kỳ bí. Trong cuốn Sách của Người Chết (Book of the Dead) – tập hợp những câu thần chú mà khán giả Việt Nam đã ngó qua trong phim… Xác Ướp Ai Cập, hoa sen xanh xuất hiện liên tục, vừa là lễ vật cho các vị thần, vừa là hình ảnh trang trí.

 

Hoa sen trong cuốn “Book of the Dead”

 

Motif hoa sen trong kiến trúc Ai Cập cổ đại

 

Hoa sen xanh không chỉ hóa thân vào nghệ thuật mà còn có giá trị thực tiễn quan trọng trong đời sống hoàng gia. Những khu vườn thượng uyển của vua Thutmose III tràn ngập hoa sen. Trong những buổi dạ yến của hoàng tộc, khách khứa được người hầu trang điểm bằng những vòng hoa kết bằng cánh sen lộng lẫy. Là một người rất yêu hoa sen, vua Tutankhamun nổi tiếng được chôn cùng một vòng hoa sen quanh cổ. Ông còn có những chiếc dép thêu hình hoa sen, những cây đèn cẩm thạch và đồ trang trí khác khảm hoa sen, tất cả được mang ra cho hậu thế chiêm ngưỡng khi ngôi mộ của ông được khám phá vào năm 1922.

Tượng vua Tutankhamun trỗi dậy từ hoa sen

 

Không khó để đoán được rằng, những tiếu tượng gắn bó với hoa sen ở phương Đông còn phong phú thế nào. Hoa sen “xịn” mà chúng ta rất đỗi quen thuộc có lẽ xuất hiện đầu tiên ở Ấn Độ, nơi những truyền thuyết về hoa sen khá giống với đất nước Ai Cập. Kinh Vệ-Đà (Veda), suối nguồn của văn minh Ấn Độ từ 1400 năm trước Công nguyên đã nhắc tới hoa sen. Brahma – vị thần của sự sáng thế đã tạo nên một đóa hoa sen ngàn cánh bằng vàng từ đại dương, hóa thành thế giới. Có người lại nói chính Brahma được sinh ra từ đóa hoa sen. Cùng Vishnu và Shiva, Brahma là một trong những vị thần chủ chốt của Ấn Độ

Vị thần màu xám là Vishnu – đóa hoa sen nở từ rốn ngài sinh ra Brahma (nho nhỏ màu trắng). Người phụ nữ xoa bóp chân cho Vishnu là nữ thần Laksmi.

 

Laksmi, còn có tên Padma (hoa sen), là nữ thần có gắn bó mật thiết với hoa sen. Vai trò của bà khá giống với Quan Âm hoặc thánh Mẫu của Việt Nam.

 

Tượng Phật vàng khổng lồ trên núi Nga Mi, tỉnh Tứ Xuyên

 

Ở Trung Quốc, hoa sen có lịch sử phát triển kéo dài từ 7000 năm trước Công nguyên dọc hai bờ sông Trường Giang và Hoàng Hà. Hoa sen Trung Quốc xuất hiện dày đặc trong thơ ca, tranh vẽ, điêu khắc, gốm sứ, thêu thùa.

 

Chim và hoa sen, tranh của Bát Đại Sơn Nhân (Chu Đạp)

 

Nhưng hoa sen Trung Hoa không chỉ là cái đẹp mà còn là sự nhẫn tâm và đau đớn. Ba tấc sen vàng chính là để chỉ bàn chân bó nhỏ xíu dài chừng điếu thuốc lá của đàn bà Trung Hoa. Sen vàng (kim liên) đầu tiên là được dùng để miêu tả bước đi của Phan Phi – “đi mỗi bước nảy một đóa hoa sen vàng.” Đến đời Lý Hậu Chủ, nhà vua có mỹ nữ yêu dấu là Diễu Nương nên làm tòa sen vàng cao sáu thước cho nàng nhảy múa. Tục bó chân của đàn bà con gái bắt đầu từ đó. Những bé gái nhỏ tuổi, muộn thì lên 5, sớm thì lên 3 đã bị bó chân, dần dần bốn ngón (trừ ngón cái) đều rụng đi. Người phụ nữ trở thành một sinh vật tàn phế, song đấy lại được cho là đạo đức! Tiểu thư các nhà giàu có bó chân, dần dần con gái nhà thường dân cũng bó. Phụ nữ không bó chân không lấy được chồng, thậm chí khi mai mối chỉ cần xem chân, không xem mặt. Đến tận thời Trung Hoa Dân quốc vẫn còn nhiều người phụ nữ không chịu bỏ chân bó.

 

Một chiếc hài dành cho bàn chân phụ nữ chỉ dài 4 inches, tức 10cm

 

Để hiểu được nỗi ám ảnh vô cùng… khó hiểu của người Trung Quốc với đôi chân bó, cần nhớ rằng trong văn hóa Trung Quốc, bộ phận cấm kị và gợi tình nhất của người đàn bà không nằm ở gương mặt hay bộ ngực, mà chính là đôi chân. Sau khi một người con gái đã bó chân, người đàn ông duy nhất được chạm vào đôi chân của cô ta chỉ có thể là chồng. Đôi bàn chân khêu gợi của người đàn bà Trung Quốc đã xuất hiện trong những “dâm thư” như Kim Bình Mai, khi Phan Kim Liên bị Tây Môn Khánh nắm lấy chân trêu ghẹo. Hành động đó trong mắt người đọc hiện đại thì quá… hiền lành, song dưới lăng kính lịch sử, có thể coi Phan Kim Liên đã thất thân với Tây Môn Khánh ngay từ giây phút đấy!

Lại nói về cái tên Phan Kim Liên. Tại sao người Trung Quốc lại ví đôi chân người phụ nữ với “sen vàng” mà không phải loại hoa nào khác? Ắt không chỉ vì hình dáng. Chữ “liên” đồng âm với chữ “lân” nghĩa là đáng yêu, nên “kim liên” còn là tiếng lóng để chỉ cho bộ phận gợi cảm của phụ nữ. Trong hệ thống biểu tượng của Trung Quốc, con cá chép lại là ẩn dụ cho giới tính mạnh mẽ của đàn ông. Những bức tranh cá chép-hoa sen do đó chính là thể hiện ước muốn về sự kết hợp nam nữ, con đàn cháu đống.

 

Tranh cá chép vờn hoa sen

 

Hylas and the nymphs,” của John William Waterhouse. Hylas là người đồng chí kiêm người yêu của Hercules. Trên đường đi tìm bộ lông cừu vàng, chàng đã bị các nàng tiên bắt cóc. Những đóa hoa sen/súng nổi trên mặt nước ám chỉ việc Hylas sẽ mau chóng quên hết cõi trần để đắm chìm trong lạc thú cùng các nữ thủy thần.

Xin được kết thúc bài bằng phần đầu trong bài thơ Điệp luyến hoa của nhà thơ Âu Dương Tu. Những người đã từng đọc tác phẩm Thần Điêu Hiệp Lữ chắc hẳn rất quen thuộc với bài thơ này.

Việt nữ thái liên thu thuỷ bạn.
Trách tụ khinh la,
Ám lộ song kim xuyến.
Chiếu ảnh trích hoa hoa tự diện.
Phương tâm chỉ cộng ty tranh loạn.

Bản dịch thơ:

Bờ thu Việt nữ hái sen,
Vờn tay áo lụa ẩn khoen xuyến vàng.
Hái hoa hoa ánh mặt nàng,
Lòng đây chỉ khốn nỗi quàng tơ vương.

Tác giả: Anh Nguyễn
Nguồn: soi house

 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.