“Danh từ sơn mài (laque) là một danh từ mới đặt sau này để chỉ một kỹ thuật trước kia gọi là Sơn Ta nhưng đã biến hoá hẳn do nghệ thuật mài sơn. Kỹ thuật Sơn Ta cũng tương tự như sơn Tàu, có từ đời nhà Hán. Sử dụng cùng với Sơn Ta một nguyên liệu là sơn sống. Chất sơn sống này, ở nước ta, miền Phú Thọ sản xuất rất nhiều và vẫn bán sang Tàu cùng Nhật. Từ năm 1931 trở về trước, công dụng Sơn Ta cũng như Sơn Tàu ở Tàu và Sơn Nhật ở Nhật là phủ lên đồ vật làm nó tôn vẻ lộng lẫy, lên những vật dùng thường như cái khay, cái tráp, đôi guốc, đồ thờ như hương án dài, bát đĩa, đồ trang trí như câu đối, hoành phi, bình phong… màu sắc đại để có: son, đen, nâu, cánh gián, vàng, bạc theo cổ truyền. Nói rõ ra, Sơn Ta chỉ có công dụng trang trí, địa vị là ở trong trang trí. Mặc dầu ở Nhật, nghệ thuật sơn có tế nhị hơn cả, nhưng chưa một nước nào nghĩ đến tìm tòi, sử dụng nguyên liệu sơn một cách khác cổ truyền, phiêu lưu trong nghệ thuật sơn tìm một con đường nào tăng phẩm giá mỹ thuật sơn bằng cách phát minh thêm khả năng của nó. Từ 1931 trở đi, nhờ sự tìm tòi thiết tha của một số họa sĩ có tài bỏ sơn dầu để chuyển hẳn về sơn mài, Sơn Ta đã vượt được ra ngoài nơi cầm hãm, ngang nhiên trên đường bao la của hội họa, cứ phương trời xa lạ mà tiến. Từ cái tráp, chiếc guốc, nó vượt lên bức họa lồng khung quý giá, từ một phương tiện phụ thuộc làm tôn vẽ đồ vật, nó trở nên một phương tiện độc đáo diễn đạt nổi tâm hồn người nghệ sĩ, một phương tiện lấn át cả sơn dầu. Quên dĩ vãng Sơn Ta đổi tên nhũn nhặn là Sơn Mài (Tô Ngọc Vân).
Để một sản phẩm có giá trị và đảm bảo được độ bền, quy trình thực hiện cốt vóc là yếu tố khá quan trọng. Các họa sĩ, nghệ nhân ở Bình Dương đã tuân thủ nghiêm ngặt các bước thực hiện cốt vóc như sau:l. Mài nhám gỗ, lót sơn sống hom sớ gỗ, làm phẳng mặt gỗ trước khi bọc vải.2. Bọc vải lót sơn mặt gỗ: Dùng vải tám bọc sát và sơn lót lên mặt vải một lớp sơn nữa. Bọc vải nhằm giúp cho sản phẩm không bị co rút, méo mó hoặc bị nứt.
Đến nay, qua khảo sát thực tế, kỹ thuật sơn mài Bình Dương bao gồm 7 hình thức thể hiện sau đây:l . Vẽ màu vàng bạc:a. Dát vàng làm nền: Sau khi sản phẩm được chuẩn bị xong phần cốt vóc, mài quang phẳng mịn xong đến giai đoạn tra sơn phủ hoặc sơn cẩm sách lên họa tiết thật mỏng, đem ủ cho ráo mặt sau đó dùng vàng hay bạc dán lên sản phẩm, là đến giai đoạn vẽ hoạ tiết lên.
b. Dát vàng trên họa tiết: Sản phẩm đã được chuẩn bị phần cốt vóc, mài quang phẳng mịn, đánh bóng xong thì đến giai đoạn tra sơn phủ hoặc sơn cẩm sách (còn gọi là cẩm sắc) lên họa tiết thật mỏng, đem ủ cho ráo mặt sau đó dùng vàng hay bạc dát lên họa tiết, ủ khô vẽ chi tiết lên hoạ tiết .
2. Vẽ phủ (còn gọi là Vẽ phủ mỏng):
Dùng lớp sơn trong phủ lên để hình ảnh và màu sắc chìm dưới lớp sơn này. Tạo cho tranh cảm giác ẩn hiện, thường được áp dụng trong những đề tài như cá vàng, chim trĩ, hoa điểu.3. Vẽ lặn :a. Vẽ lặn mỏng: Sau khi lót, mài lót là in mẫu và vẽ hoạ tiết lên thật mỏng và đều, sau đó phủ lớp sơn cánh dán hoặc đánh lên một lớp verni.b. Vẽ lặn phức tạp: là hình thức gồm nhiều chất liệu như vỏ trứng, ốc, vàng lá, bạc lá, cách thực hiện gồm nhiều giai đoạn: in mẫu, cẩn trứng, cẩn ốc, vẽ màu, theo các bước sau:– Đặt mẫu vẽ lên sản phẩm.– Đặt giấy can có rắc bột phấn vào giữa.
4. Cẩn ốc: Không phải là khâu chính trực tiếp tạo ra sản phẩm, tuy nhiên cẩn ốc cũng giúp cho sản phẩm có giá trị cao về mặt nghệ thuật mỹ thuật. Thợ khảm dùng nguyên liệu là gỗ (thường là loại tốt), sơn ta (dùng để gắn) và vỏ trai, vỏ ốc để tạo ra những sản phẩm, những mặt hàng cao cấp về thủ công mỹ nghệ. Người thợ khảm tiến hành nhiều công đoạn như: vẽ mẫu, mài, cưa, chạm, hạ mặt, mài dũa, đánh bóng vỏ ốc, trai. a. Cẩn chìm: Trước đây, theo lối truyền thống ở Hà Nội thì cẩn sau giai đoạn mài lót, dùng dao khoét sâu chỗ cẩn phủ sơn sống để giữ dính xà cừ đặt vào, lót thêm hai hoặc ba lớp sơn để phủ kín chỗ hở. Sau này, nghệ nhân Bình Dương nghiên cứu cẩn ốc vào sau giai đoạn mài hom, và tiếp tục hom cho bằng mặt ốc, dùng nhám và nang mực mài cho mặt ốc hơi cao hơn mặt sơn hom một ít, sau đó dùng sơn lót lên mài cho bằng phẳng quang hoặc phủ là xong. Như vậy sẽ giảm được nhiều công đoạn và tiết kiệm công và vật tư.
b. Cẩn nổi: Cẩn lên trên lớp sơn hom đã mài phẳng, sau đó lót tiếp vài nước sơn sống cho bằng mặt với xà cừ, ủ khô, mài phẳng. Sản phẩm khi hoàn chỉnh mặt ốc cao hơn mặt tranh. Thể loại này thực hiện nhanh ít tốn công và vật tư.
5. Cẩn vỏ trứng: Dùng vỏ trứng kết hợp với kỹ thuật sơn mài truyền thống (sơn ta), nhưng khác ở chỗ vỏ trứng trên nền sơn phẳng không chỉ tạo mảng màu trắng mà có thể cẩn riêng thành một thể loại hay đề tài như chân dung, phong cảnh, cảnh sinh hoạt, lao động v.v… Cẩn vỏ trứng có nhiều kỹ thuật: cẩn úp, cẩn ngửa, trứng rây với nhiều sắc độ bằng cách chuyển đậm nhạt hoặc nướng vỏ trứng trước khi cẩn, hay tạo nhiều mảng vỏ trứng lớn nhỏ khác nhau. Vỏ trứng còn kết hợp với vẽ màu tạo ra nhiều hiệu ứng quý. Các cơ sở sơn mài ứng dụng Bình Dương đã thực hiện nhiều sản phẩm lớn như đĩa tròn đường kính 1,5m, bình cao 2,4m cẩn vỏ trứng với đề tài phong cảnh, hoa văn trang trí… Cách cẩn mới của các họa sĩ là vỏ trứng được phủ hầu như toàn bộ sản phẩm, không thành mảng tách bạch, mà nó vừa lấn át một cách kín đáo trên bề mặt rộng, vừa ẩn sâu trong mọi vật, đem lại những hiệu quả bất ngờ.
6. Khắc trũng: Là hình thức được khách hàng yêu thích nhiều, được thực hiện trên tranh, bình, hũ, hộp. Sau khi làm bóng, can mẫu, dùng dao, đụt bén nhọn khắc trũng xuống, hoặc xủi lên họa tiết rồi tô màu. Có thể tô màu dầy lên bằng phông rồi đánh bóng sau, đề tài thường được thể hiện là hoa điểu, phong cảnh, đền chùa…
7. Đắp nổi: Sau khi làm bóng, dùng chu trộn sơn thành chất dẻo để đắp nổi lên. Hoặc đắp nổi lên tranh sau đó mài phẳng là đến giai đoạn làm phông, quang, mài phẳng và vẽ.
Yếu tố kỹ thuật trước hết phải kể đến khâu pha chế nhựa sơn. Để có được một kỹ thuật độc đáo, nghệ nhân và họa sĩ Bình Dương đã không ngừng tìm tòi sáng tạo ra một phương pháp, một cách thức thể hiện riêng để phục vụ cho các thể loại, sản phẩm mỹ thuật ứng dụng. Kỹ thuật thể hiện phong phú qua nhiều thể loại, việc pha chế sơn cũng đòi hỏi có những kỹ thuật khác nhau, mỗi thể loại cần một cách pha chế riêng. Ví dụ như khắc trũng là loại tranh phần lớn được quang bóng xong mới khắc xuống nên lớp sơn phía dưới phải dẻo, bền chắc, không dòn và có độ dày đều nhau, do đó, khi pha chế sơn Phú Thọ các nghệ nhân và họa sĩ Bình Dương đã pha trộn thêm sơn Nam Vang có tính dẻo vào để khi khắc xuống không bị bể, nứt hoặc hư nét. Sơn dùng phủ cá vàng khi pha chế phải trong, bóng, có như vậy khi mài ra mới thấy rõ từng vảy cá ẩn hiện dưới làn nước. Sơn quang đen, quang son, cần độ dẻo, sơn tỏa khi quang không bị trằn, quánh đặc, không đều. Nhiều sản phẩm quá lớn lại tranh thủ làm ban đêm cho nên các nghệ nhân tìm cách làm cho sơn chín và tỏa để có thể quang cả ban đêm. Với kỹ thuật quang sản phẩm tủ, án gió lớn phải là thợ có tay nghề cao vì yêu cầu ra sơn phải thật đều, nhanh tay, mặt sơn phải thật đều và tỏa, yêu cầu không bụi, không sọc thép, không dày hoặc mỏng, có như thế khi mài quang mới đạt, nếu có sơ xuất thì phải phủ lại toàn bộ. Ở phía Bắc thế mạnh là những sản phẩm nhỏ, yêu cầu về số lượng, phần lớn tranh thủ thời gian nông nhàn nên tiến độ thi công rỗi rãi hơn. Pha chế bằng sơn Phú Thọ, độ trong nhiều và sơn mau khô hơn. Sơn Bình Dương pha chế thường có thêm sơn Nam Vang nên sơn thêm độ dẻo và ấm (nâu đậm) hơn. Cách pha chế của mỗi miền và nghệ nhân đều khác nhau, nhưng mỗi cách pha chế có ưu điểm riêng nhằm đạt đến hiệu quả tốt nhất. Khi thực hiện phải tính toán chu đáo từng lớp để tiết kiệm thời gian và vật tư mà sản phẩm vẫn đẹp. So với những sáng tác tạo hình của các họa sĩ Hà Nội thì cách thực hiện của sơn mài Bình Dương đơn giản hơn, chất liệu và phương pháp tạo hình mang tính ước lệ, thực tế và mang tính ứng dụng. Nên việc thực hiện thuận lợi và nhanh. Từ đó có thể giải quyết được số lượng lớn sản phẩm cho nhu cầu khách hàng. Trong nghề sơn cổ truyền hay hiện đại, kỹ thuật pha chế sơn đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Sơn là nguyên liệu chính và cũng là yếu tố hàng đầu quyết định chất lượng sản phẩm. Bằng phương pháp sản xuất hiện đại, sử dụng sơn keo hóa học kết hợp với sơn ta, một số nghệ nhân, họa sĩ trẻ Bình Dương vẫn đang tìm tòi thể nghiệm để tiếp tục tạo ra các sản phẩm mới có chất lượng dựa trên kỹ thuật sơn mài truyền thống. Điều này cũng là tất yếu trong cơ chế kinh tế thị trường, của cạnh tranh khốc liệt mà Bình Dương là một trong những địa phương đi đầu trong cả nước. Chúng ta chấp nhận thực tế sinh động này như là yếu tố ngoại sinh mà PGS – TS Nguyễn Tri Nguyên đã viết: “Di sản văn hóa mà cốt lõi của nó là truyền thống văn hóa, đóng một vai trò rất quan trọng với tư cách là nguồn lực nội sinh cho quá trình tiếp biến văn hóa. Trên con đường hiện đại hóa văn hóa, xã hội và con người, một sự phát triển nội sinh của văn hóa dân tộc, – xuất phát từ những nhu cầu và điều kiện bên trong, có vai trò động lực. Truyền thống văn hóa dân tộc đã chuẩn bị cho văn hóa phát triển theo hướng hiện đại. Chỉ với một sự phát triển như thế mới có thể vừa đổi mới, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc của văn hóa. Trong sự phát triển đó, yếu tố giá trị được gia tăng” (“Văn hóa – tiếp cận lý luận và thực tiễn”, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội 2006, tr. 235).
Ngày nay, trong điều kiện mới, cuộc sống, con người và nghề nghiệp, ở lĩnh vực nào cũng có thể có cơ hội đồng thời có thách thức mất còn. Trong làn sóng công nghiệp hóa của xã hội hiện đại với kiểu sản xuất hàng loạt, tiêu dùng ồ ạt, một số người làm sơn mài theo kiểu “hàng chợ”, khiến cho nhiều sản phẩm không còn giữ được vẻ đẹp của sơn mài truyền thống. Người ta chạy theo thị hiếu khách hàng với sự hào nhoáng của nhiều loại chất liệu “phi sơn ta” dẫn đến tình trạng sơn mài giả hiệu, kém phẩm chất đầy rẫy ở các cửa hàng, nhà sách, khu du lịch. Cũng bắt đầu có dư luận chê cái kỹ thuật theo truyền thống là cổ hủ và một loạt sản phẩm, tranh sơn mài phủ bạc dập các màu xanh đỏ rồi phủ lên một lượt sơn bóng Nhật Bản đã xuất hiện làm cho vàng thau lẫn lộn. Nghề sơn mài truyền thống đã dần bị mai một.
Một số họa sĩ trẻ và nghệ nhân đã đóng góp đáng kể cho sơn mài ứng dụng Bình Dương trong thập niên 90 bằng sự ra đời một dòng sản phẩm mỹ nghệ theo kỹ thuật mới. Dầu vậy, so với danh tiếng sơn mài Thanh Lễ hay Trần Hà những năm 60 về chất lượng không thể bằng được. Sơn mài ứng dụng Bình Dương cũng còn nhiều hạn chế cần được khắc phục. Do đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu về kỹ thuật sơn mài ứng dụng của Bình Dương làm cơ sở nhận thức để các họa sĩ (nhất là các họa sĩ trẻ), các nghệ nhân hãy cùng góp phần khôi phục, bảo tồn và phát triển nghề sơn mài Bình Dương trong tương lai.
Tác giả: Kiêm Thêm