– Gốm Nam bộ phát triển mạnh mẽ và sớm trở thành hàng hóa cung cấp cho một thị trường rộng lớn chứ không chỉ tự cung tự cấp trong một địa bàn nhỏ. Gốm Nam bộ có tính chất bình dị và phổ biến: từ dân thường đến nhà giàu có đều có thể mua và sử dụng các lọai sản phẩm gốm Nam bộ.
– Chức năng phổ biến của Gốm Nam bộ là gốm gia dụng, sinh họat, đồ thờ cúng trong đình chùa, gốm trang trí kiến trúc… Trang trí hoa văn cũng giản dị, gần gũi với cuộc sống người bình dân. Những sản phẩm mang tính mỹ thuật cao thì cũng có chức năng sử dụng thật sự chứ không chỉ là tác phẩm „mỹ nghệ” để trưng bày ngắm nghía.
– Gốm Nam bộ thể hiện sự giao lưu tiếp nhận rất nhanh về kỹ thuật sản xuất, mẫu mã mới, với những chức năng mới, thích nghi với lối sống và sinh họat mới.
Xóm lò gốm Sài Gòn xưa.
Trên bản đồ Phủ Gia Định do Trần Văn Học vẽ năm 1815 có ghi địa danh “Xóm Lò gốm” – một trong những làng nghề nổi tiếng của Sài Gòn xưa, gồm các làng cổ Phú Giáo – Gò cây Mai, làng Phú Định – Phú Lâm, làng Hòa Lục… mà ngày nay thuộc quận 11, quận 6 và quận 8. Khu vực này bây giờ vẫn còn kênh – rạch Lò Gốm và những địa danh liên quan đến nghề làm gốm như (đường) Lò Siêu, (đường) Xóm Đất, cầu Lò Chén… Tên Lò Gốm này đã ghi trong sách Gia Định thành thông chí (1820) “Từ năm 1772 con kênh Ruột Ngựa được đào để nối liền từ Sa Giang ra phía Bắc đến Lò Gốm”. Như vậy, khu lò gốm chắc chắn đã khởi lập trước năm này. Dấu tích Xóm Lò gốm còn lại là khu vực gò Cây Mai (quận 11) và di tích lò gốm cổ Hưng Lợi (phường 16 quận 8).
Khai quật lò Hưng Lợi cho biết sản phẩm chủ yếu là đồ gia dụng: lu chứa nước (nên còn có tên là Lò Lu), các loại hũ men nâu men vàng, nhiều kiểu chậu, vịm, chậu bông kích thước khác nhau. Khỏang từ giữa thế kỷ XIX khu lò sản xuất những sản phẩm in tên “Hưng Lợi diêu” (Lò Hưng Lợi) gồm các loại đồ “bỏ bạch” (bên ngoài không tráng men) như: nồi có nắp và tay cầm (nồi lẩu), siêu nấu nước… Bên trong nồi và siêu có tráng men nâu chống thấm. Chậu bông bằng sành hình tròn hoặc hình lục giác, men nhiều màu, trang trí ô hoa văn “bát tiên” “tùng lộc” “mai điểu”…
Từ đấu thế kỷ XX sản xuất các loại bát, đĩa, ấm, ly uống trà, chai, thìa, bình rượu, lư hương, thố có nắp… men trắng vẽ men lam; Có những chữ “Kim ngọc”, “Việt Lợi” trên muỗng, bình trà, ly nhỏ… có thể đó là tên tiệm bán đồ gốm đặt hàng. Ngòai ra còn sản xuất lọai chai gốm men trắng giống như chai thủy tinh. Sản phẩm lò Hưng Lợi làm bằng nặn tay, in khuôn, kết hợp bàn xoay. Hoa văn in khuôn, đắp nổi, chạm khắc, sau đó phủ hoặc tô men nhiều màu, thường là màu xanh đồng hay xanh lam, màu nâu hay đỏ.
Dấu tích khu lò gốm Cây Mai nằm ở sau chùa Cây Mai. Sản phẩm khu lò này gồm loại đồ gốm thông dụng có kích cỡ lớn, sản phẩm trang trí mỹ thuật, tượng đất nung và đồ sành men màu. Lọai sản phẩm độc đáo và đặc trưng của gốm Cây Mai sản xuất vào cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX là gốm men nhiều màu như trắng, xanh lam, xanh lục, nâu, vàng… gồm nhiều kiểu tô, chén, dĩa, muỗng, bình, cốc, đôn, chậu kiểng, lư hương, bát nhang, tượng thờ; gốm trang trí kiến trúc như long (rồng), voi, ngựa và các quần thể tiểu tượng.
Trên nhiều đồ gốm Sài Gòn còn ghi năm sản xuất và tên điếm (tiệm), diêu (lò), như : tượng Giám Trai ở chùa Giác Viên (quận 11), ở góc dưới bên phải có ghi “Đề ngạn, Nam Hưng Xương, Điếm Tố”, “Canh Thìn Trọng Đông Cát Đán Lập” (1880). Ở miếu Thiên Hậu (Quảng Triệu Hội quán – quận 1) trên quần thể tiếu tượng gốm ở phần sân miếu có những bảng gốm chữ nổi “Lương Mỹ Ngọc Điếm tạo” (tiệm Lương Mỹ Ngọc tạo), “Quang Tự Thập Tam Niên”(1887) và “Thạch Loan Mỹ Ngọc tạo” (lò Mỹ Ngọc ở Thạch Loan tạo), “Quang Tự Đinh Hợi Tuế (1887). Cũng ngay trên quần thể tiếu tượng này còn có những bảng gốm khác ghi “Đề Ngạn Bửu Nguyên Diêu tạo” (lò Bửu Nguyên ở Đề Ngạn làm), “Dân Quốc, Tân Dậu Trùng Kiến” tức trùng tu năm Tân Dậu, Trung Hoa Dân Quốc (1921).
Chữ Diêu còn gặp ở một số di tích khác như ở đình Minh Hương Gia Thạnh (Quận 5), trên quần thể tiếu tượng bằng gốm có ghi “Mai Sơn, Đồng Hòa Diêu Tạo” (lò Đồng Hòa – Mai Sơn tạo), “Thiên Liên, Tân Sửu Niên Lập” (1901) hoặc ở miếu Thiên Hậu (Tuệ Thành Hội quán – quận 5) trên những quần thể tiếu tượng gốm trang trí trên nóc miếu có ghi “Bửu Nguyên Diêu Tạo”, “Mậu Thân Niên Lập” (1908); “Đồng Hòa Diêu Tạo” (lò Đồng Hòa tạo), “Quang Tự Mậu Thân”…
Hiện nay, sản phẩm gốm Cây Mai vẫn còn được lưu giữ trong dân gian, trong các đình miếu, hội quán ở Nam Bộ với các sản phẩm dân dụng như: ơ, siêu, bát, bình, lu, hũ, thống có nắp, khạp có nắp, chậu tròn, chóe có quai, đôn tròn, đôn lục giác, lân, gạch trang trí hình vuông… Có thể nói gốm Sài Gòn đặc biệt phát triển vào nửa sau thế kỷ XIX đến giữa thế kỷ XX, sản phẩm được sử dụng không những ở Nam Bộ mà còn được ưa chuộng ở nhiều nơi khác nữa.
Gốm Biên Hòa.
Từ khỏang đầu thế kỷ XX vùng Sài Gòn – Chợ Lớn đô thị hóa khá nhanh, khu vực xóm Lò Gốm mất dần những ưu thế so với vùng gốm Biên Hòa, Lái Thiêu. Trường Mỹ nghệ Biên Hòa thành lập vào năm 1903 đã tập hợp được nhiều nghệ nhân làm gốm. Dần dần gốm Biên Hòa trở nên nổi tiếng . Gốm Biên Hòa thiên về trang trí hoa văn dày đặc bao quanh sản phẩm bằng phương pháp vẽ nét chìm hoặc lấy nét chìm kết hợp với trổ thủng để tạo hoa văn, sau đó tô men không có sự phân biệt giữa men và màu ve. Hoa văn trang trí hình rồng hay “cúc hóa long”, hoa mai… khá đặc sắc. Sản phẩm gốm Biên Hòa đa dạng bao gồm bình bông, hũ, lọ, chóe, chậu, đôn, đôn voi, bộ bàn ghế tròn, đèn lồng, đĩa trang trí, tượng voi, tượng lân, tượng người… Loại chóe men đen hoặc men nâu hoa văn khắc chìm sản xuất ở Biên Hòa còn cung cấp cho nhiều khu vực ở Tây Nguyên. Một loại sản phẩm gốm Biên Hòa vẫn được sản xuất nhiều là các loại lu đựng nước bằng đất nung không men.
Cho đến nửa sau thế kỷ XX gốm mỹ nghệ Biên Hòa vẫn được xuất khẩu đi Liên xô (cũ) và nhiều nước Đông Âu.
Gốm Lái Thiêu
Ra đời vào khoảng giữa thế kỷ XIX. Gốm sứ Lái Thiêu có các trường phái (theo nguồn gốc của các chủ lò gốm) như trường phái Quảng Đông sử dụng men nhiều màu chuyên sản xuất các tượng trang trí, các loại chậu, các loại đôn voi; trường phái Triều Châu sử dụng men xanh trắng chuyên sản xuất đồ gốm gia dụng như chén, đĩa, tô và các loại bình trà, bình rượu; trường phái Phúc Kiến sử dụng men màu đen, men da lươn, chuyên sản xuất chóe, lu, vại, hũ, vịm. Trong đó gốm men nhiều màu Lái Thiêu được sản xuất hàng lọat, hiện nay còn được lưu giữ khá nhiều trong dân gian, trong các bảo tàng cũng như trong các sưu tập tư nhân. Gốm men nhiều màu Lái Thiêu với nguồn nguyên liệu địa phương kết hợp với kỹ thuật truyền thống của người Hoa và cả người Việt đã tạo nên một dòng gốm men nhiều màu rất bình dị, dân dã mà cũng rất thanh thóat, độc đáo.
Hoa văn trang trí trên gốm Lái Thiêu có nhiều dạng khác nhau, thường theo xu hướng đồ án hóa, đường nét to, thô nhưng không vì thế mà kém trau chuốt, sinh động. Nội dung tranh vẽ lấy hoa lá làm thể chính, chiếm số lượng nhiều nhất là đồ án hoa mẫu đơn được bố cục chặt chẽ: Mẫu Đơn với chữ Thọ; Mẫu Đơn Kê (hoa mẫu đơn với gà trống); Mẫu Đơn Điểu (hoa mẫu đơn với chim). Ngoài ra còn có các đồ án: Tùng Hạc, Hoa Lan, Hồng Điệp (hoa hồng với bươm bướm), Lý Ngư (cá chép), và vẽ Sơn Thủy phong cảnh hữu tình… Đặc biệt đồ án tranh “cát tường” với hình ảnh con gà trống trên tô, đĩa.. đã trở thành “thương hiệu” của gốm men màu Lái Thiêu.
Thị trường của gốm Nam bộ là cả miền Đông và Tây Nam bộ, thậm chí cả một phần Tây Nguyên và Campuchia. Trong nửa đầu thế kỷ 20 khi thương nghiệp Nam – Bắc phát triển mạnh thì gốm Nam bộ còn theo chân các thương nhân ra miền Bắc miền Trung, có mặt trong nhiều nhà giàu có và một số đình chùa… Nếu không xuất phát từ đặc điểm lịch sử – xã hội và đặc trưng văn hóa Nam bộ để nghiên cứu thì dễ quan niệm rằng, gốm Nam bộ không có giá trị đặc biệt, vì niên đại muộn và tính mỹ thuật không cao vì quá… bình dân.
Gần đây giới sưu tầm cổ vật đã tổ chức một cuộc Hội ngộ „Gốm Nam bộ”. Đây là một họat động của cộng đồng yêu thích cổ vật, do cộng đồng tổ chức và vì lợi ích của cộng đồng. Những họat động như thế này chính là thực hiện „xã hội hóa” việc bảo tồn di sản văn hóa, nhưng xuất phát từ cộng đồng chứ không trông chờ phụ thuộc vào sự tổ chức của nhà nước. Qua đó cộng đồng sưu tầm cổ vật cũng có dịp gặp gỡ trao đổi, nâng cao sự hiểu biết về cổ vật, giá trị của di sản văn hóa càng được phổ biến rộng rãi hơn trong xã hội.
Tác giả: không rõ
Nguồn : http://khaoco-top.blogspot.fr
Tài liỆu THAM KHẢO
1) Mr Derbès 1882Etude sur les industries de terres cuites en Cochinchine, excursions et reconnaissances, Saigon , p. 383 – 450.
2) Gia ĐInh phong cẢnh vỊnh 1977.Trương Vĩnh Ký ghi chép, Nguyễn Đình Đầu giới thiệu, nhà xuất bản Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh.
3) Kerry NguyỄn Long 2002 Gồm Biên Hòa trong dòng giao lưu văn hóa, Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh con người và văn hóa trên đường phát triển, Nhà xuất bản Trẻ, trang 373 – 378.
4) Litana – NguyỄn CẨm Thúy chỦ biên 1999.Bia chữ Hán trong Hội quán người Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
5) MỸ ThuẬt Bình Dương xưa và nay 1998 Hội Văn học Nghệ thuật Bình Dương
7) NguyỄn Đình ĐẦu 1987 Địa lý lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh, trong Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập 1, nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh.
8) NguyỄn ThỊ HẬu – ĐẶng Văn ThẮng 2001Kỹ thuật sản xuất của lò gốm cổ Hưng Lợi, (quận 8 – Thành phố Hồ Chí Minh), tạp chí Khảo cổ học số 2 – 2001, trang 101-122.
9)TrỊnh Hoài ĐỨc 1972 Gia Định Thành Thông Chí, dịch giả Tu Trai Nguyễn Tạo, Nha Văn hóa Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, Sài Gòn.