Shiwan một quận huyện thuộc thành phố Phật Sơn tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Đây là khu vực sản xuất gốm đã trải qua một lịch sử lâu dài từ thời Ming thế kỷ 16, từ khi các nghệ nhận gốm từ các vùng Dehua (Đức Hóa?) và Jingdezhen di dời đến khu vực Shiwan sinh sống, và phát triển rất hưng thịnh cho tới thời Thanh. Shiwan nằm khoảng 6 km về phía tây nam của Phật Sơn, nơi có một vị trí địa lý rất thuận lợi cho sản xuất và cung cấp hàng hóa cho nội địa cũng như xuất khẩu. Phật Sơn trong lịch sử Trung Quốc luôn được xem như một “vựa thóc” khổng lồ của các sản phẩm thủ công, một trong bốn trung tâm văn hóa, kinh tế lớn nhất của Trung Quốc, đó là lý do tại sao các thương nhân trong và ngoài nước đều đi đến đây để lấy một hàng hóa đem đi phân phối trong nước hay xuất khẩu đi các nước khác. Shiwan cũng vì thế được hưởng lợi ích rất nhiều từ Phật Sơn. Qu Wengshan (屈 翁 山) đã chỉ ra trong cuốn sách của ông “Quảng Đông Xin Yu” (广东 新 语) rằng, gốm của Shiwan đã được gửi đến Quảng Đông, Quảng Tây và xuất khẩu rất nhiều ra nước ngoài. đặc biệt vào thế kỷ 18, thời kỳ mà Trung Quốc giao thương mạnh với phương Tây thông qua các công ty Đông Ấn của các quốc gia này.

Cho tới thời Thanh quy mô sản xuất gốm tại Shiwan là rất lớn. Để đảm bảo việc phát triển có trật tự và ngăn chặn cạnh tranh không lành mạnh trong sản xuất cũng như tiêu thụ hàng hóa, các phường hội gốm khác nhau đã được thành lập. Thời Ming Jiajing đã có rất nhiều phường hội được thành lập và cho đến thời Ming Tianqi thì chỉ còn có 8 phường hội. Tuy nhiên, sang đến thời nhà Thanh thì lại được phát triển thành hơn 32 phường hội. Từ cuối Ming cho đến triều đại nhà Thanh thì những sản phẩm thường có chữ ký của các hội, lò hoặc các thợ gốm. Tuy nhiên các sản phẩm sau này được làm lại cũng thường sử dụng lại mẫu mã và chữ ký này.

Các phường hội được lập thương là dựa trên các loại men cốt, mẫu mã, loại hình sản phẩm, do các thành viên của hội sáng tạo nên như  đồ gốm sứ men trắng, đồ gốm tráng men màu đen, etc. Ngành công nghiệp gốm Shiwan chủ yếu sản xuất hàng loạt các vật dụng gia đình để đáp ứng nhu cầu thường ngày, chẳng hạn như lọ, chậu hoa, bát, đĩa, bình, ấm trà, nồi nấu thuôc thảo mộc, etc. Tuy nhiên họ cũng sản xuất những sản phẩm rất quan trọng khác như đồ trang trí cho các sườn mái của đền chùa và các bức tượng nhỏ. Đặc biệt trong triều đại nhà Thanh, các lò sản xuất với số lượng lớn các đồ gốm kiến ​​trúc, tượng trang trí với motif là các ngư dân, người sẻ gỗ, nông dân và nhưng nhân vật nổi tiếng trong lịch sử, những nhà học giả, tri thưc và các vật dụng hàng ngày.

Kỹ thuật của dòng gốm này nó ảnh hưởng đến nhiều loại gốm khác trong đó có gốm Shiga Nhật Bản và dòng gốm Nam Bộ Việt Nam.

Dưới đây là hình ảnh một lò Shiwan lâu đời nhất và quan trọng nhất tồn tại đến ngày nay. Được xây dựng với mặt lò phải đối mặt với hướng Nam để bắt được gió Nam, do đó tên Nanfeng (gió Nam) xuất phát từ điều này. Lò được xây dựng vào thời nhà Minh  đầu thế kỷ 16, trong triều đại Zhengde (1505-1521). Mặc dù vậy qua thời gian, lò đã được cải tạo ít nhiều, các ống khói và những mái tranh gốc thay thế bằng gạch đã được thêm vào sau thời kỳ “giải phóng”, có nghĩa là sau năm 1949. (Ảnh chụp bởi Jan-Erik Nilsson, 2006).

 

 

Việc tạo các hình tượng thường được làm bằng cách đúc các bộ phân sau đó lắp ráp từng phần lại với nhau. Bằng cách này, đầu, tay và các bộ phận khác thuộc cơ thể có thể được định hình khác nhau phục thuộc vào độ hao mòn của các khuôn mẫu khu nung (Ảnh chụp bởi Jan-Erik Nilsson, 2006).

 

 

Sản phẩm mới ra lò trong gian trưng bày

 

Nói chung, đồ gốm Shiwan khá nặng và thường được trang trí với một gam màu xám, thai cốt chất liệu bột đá và thường được nung ở nhiệt độ thấp không cao như sứ, men dày và có cảm giác nhờn. Thành tựu lớn nhất của người thợ gốm Shiwan là trong lĩnh vực tạo hiệu ứng men khác nhau và sử dụng gốm để chế tạo các món đồ trang trí kiến trúc, tượng.

Một thành tích đáng chú ý nhất của gốm Shiwan là các tác phẩm tượng hay trang trí ngoại thất của họ. Các bức tượng rất biểu cảm, sống động và sống động hơn nhiều so với dòng đến từ Jingdezhen. Trong giai đoạn đầu, chủ yếu là những bức tượng tôn giáo như Bồ Đề Đạt Ma, Phật di lặc, tam đa,etc, được sản xuất. Sau này, họ sản xuất nhiều hơn những bức tượng từ lịch sử, văn hóa dân gian và tác phẩm văn học nổi tiếng như Tam Quốc, thủy hử.

Gốm Shiwan cũng được sản xuất theo đơn đặt hàng của người nước ngoài phục vụ cho thị trường xuất khẩu Tây, bức tượng nhỏ của trẻ em nước ngoài, khỏa thân và bán thân cũng đã được sản xuất. Gốm Shiwan đặc biệt chú ý đến các biểu hiện trên khuôn mặt của bức tượng. Các biểu hiện có thể xuất hiện phóng đại nhưng khéo léo nắm bắt được tính cách độc đáo của đối tượng.

Tinh thần trong gốm là quan trọng hơn so với các hình thức, vì vậy các nhân vật trong các vở tuồng ảnh hưởng mạnh mẽ của người thợ gốm Shiwan. Các bức tượng tái tạo rất chân thật các nhân vật trong các vở tuồng, và người thợ Shiwan cũng thường sở dụng nhân vật này để “luyện” tay nghề của họ vì các nghệ sĩ là những người thể hiện nhân vật một cách diễn cảm nhất thông qua các biểu hiện trên khuôn mặt và hành động của họ.

 

Các thợ gốm cũng thường bắt chước các dòng men đơn sắc cổ xưa khác nhau như Sancai và phức tạp hơn như Jun.

 

 

Nói về men thì Shiwan đạt thành tích cao nhất của mình khi cho ra một loại men dòng Jun mà người ta hay gọi là Guang Jun. Men Jun là một hình thức hỏa biến của men. Có một sự khác biệt giữa Song/Yuan Henan Jun và Guang Jun là Henan Song / Yuan Jun men bao gồm một lớp duy nhất của men, trong khi đó Shiwan Jun men có tối thiểu hai lớp. Các lớp màu đáy phục vụ hai mục đích. Nó được coi như một lớp nền có hiệu quả lấp đầy các lỗ nhỏ trong thai cốt và cũng là một lớp mầu nền tạo ra chiều sâu và sắc mầu phong phú hơn cho các lớp men trên cùng.

Nếu chúng ta so sánh Tang Jun và Guang Jun sẽ thấy một số điểm thú vị. Tang Jun có một lớp cơ sở màu nâu sắt trong khi Shiwan Jun thì nước men có chiều sâu và sự hỏa biến tạo nên một hiện tượng như có sự bắn tóe trên bề măt.

Tang Jun với một lớp mầu nâu sắp cơ bản

Shiwan Jun với hiện tượng hỏa biến rất đặc trưng và có chiều sâu do được cấu tạo từ nhiều lớp men.

 

Hiệu ứng hỏa biến của men Guang Jun rất đa dạng, phức tạp và thú vị. Một số tên dành cho các dòng men được những nhà sưu tầm đặt ra để mô tả sự hiệu ứng hỏa biến khác nhau của dòng gốm này, chẳng hạn như “mưa rắc trên tường” (雨淋 墙) tương tự như tác dụng của rắc mưa chạm vào tường hay lông vũ chim bói cá  xanh (翠 毛 蓝 ), ám chỉ loại men hỏa biến chảy mượt như lông chim bói cá (kingfisher).

 

Một loại hiếm khác là men “carambola” với hiệu ứng đốm men đỏ của nó.

 

 

Các thợ gốm Shiwan cũng đã cho ra một loại men đặc biệt của các đơn sắc đỏ, được gọi là quả lựu đỏ. Đây là loại men chỉ xuất từ giữa thế kỷ thứ 19.

 

Những thợ gốm Shiwan nổi tiếng trong các loại hình nghệ thuật bao gồm Huang Bing (黄炳), Huang Guzhen (黄 古 珍) từ thời Đạo Quang / Quang Tự, Chen Weiyan (陈 谓 岩), Chen Chi (陈 赤), Pan Yushu (潘玉 书) từ thời Guangxu cho thời Dân Quốc, Huo Jin (霍 津), Wen Songling (温松龄), Liu Zuochao (刘佐 潮) từ thời kỳ Dân Quốc, và Ou Qian (区 乾), Liu Chuan (刘 传), người xuất hiện trong thời kỳ sau Dân Quốc.

Một số đồ gốm Shiwan cũng mang dấu vết của người thợ gốm, hay lò sản xuất. Những dấu hiệu này có ý nghĩa như xác định các lò sản xuất và cũng phục vụ để quảng cáo sản phẩm. Tuy nhiên, một số lò cũng làm lại những sản phẩm của một số thợ bậc thầy danh tiếng của thời kỳ Ming muộn và thời đầu Qing, nhãn hiệu của những thợ hay lò nổi tiếng này được sao chép thậm chí cho đến thời kỳ Dân Quốc.

Một số lò nổi tiếng bao gồm:

Zu Tang Ju (祖唐 居) – lò từ thời cuối nhà Minh nổi tiếng về chất lượng sản phẩm của mình. Các men đơn sắc và sứ Sancai, sản xuất chủ yếu là để sử dụng hàng ngày. Có rất nhiều đồ giả của Zu Tang Ju trong thời gian cuối nhà Thanh, thời Dân Quốc trong đó bao gồm những bức tượng của Đức Phật và La hán. Trong giai đoạn Ung Chính, một số đồ sản xuất bới Zu Tang Ju cũng được tìm thầy tại tầu đắm ở Ca Mau Việt Nam.

 

Lò  Nan shi (南 石) / Nan Shi Tang (南 石 堂) / Wu Nanshi (吴 南 石) : những lò này được biết đến với chất lượng sản phẩm rất tốt. Một số trong những tốt nhất của họ là ở dạng bình và lư hương bắt chước hình dạng lư đồng. Các đồ thường là men da bò sáng, mịn màng và không chứa các tạp chất cũng như các hạt cát thô.

 

 

Chen Yue Cai (陈 月 彩) – Nó được đặt tên theo một thợ gốm nổi tiếng thời cuối Ming. Đồ gốm được sản xuất là bằng kính màu nâu vàng nhạt hoặc màu xanh lá cây.

Wen Ru Bi (文 如 壁) – Lò được đặt tên theo tên chủ nhân của nó là người thợ gốm lành nghề. Lò hoạt động từ Thanh Khang Hy đến đầu thế kỷ 20. Ban đầu lò được ghi nhận là sản xuất đồ sinh hoạt. Tuy nhiên, sau đó nó đã trở thành một trong những lò sản xuất chính các đồ trang trí ngoại thất như các motif trên mái nhà. Lò đã hoạt động vào thời Qing cho tới thời Dân Quốc. Trong suốt thời kỳ Dân Quốc, nó tách ra thành hai lò: Ru Bi Shang Ji (如 壁 生 记.) và Ru Bi (如 壁).

Bao Yu (宝玉) – Hoạt động từ giữa thời kỳ nhà Thanh muộn. Lò nổi tiếng làm chậu hoa, ấm và đồ gia dụng hàng ngày.

Liu Sheng Ji (刘胜 记) – Liu Sheng Ji là một thợ gốm nổi tiếng của thời kỳ Tongzhi / Quang Tự. Lò của ông đã được mở ra trong thời kỳ Quang Tự và nổi tiếng để làm tiểu cảnh. Một trong những người con trai của ông, Liu Zuo Chao (刘佐 潮) là một người thợ gốm tài năng tay nghề cao làm các bức tượng nhỏ, đã tiếp tục sự nghiệp cha và tiếp tục sử dụng nhãn hiệu Liu Sheng Ji.

 

Một số nhãn hiệu nổi tiếng khắc bao gồm:

Yang Ming (杨明) / Yang Sheng (杨 昇) – Cả hai thường được cho là anh em hoạt động trong khoảng thời gian Ming muộn. Yang Ming đã nổi tiếng với sản phẩm bột men màu xanh. Nhiều tác phẩm của ông hiện còn được bắt chước.

 

Ke Song (可 松) – một thợ nổi tiếng thời cuối Ming, ông nổi tiếng với việc làm các sản phẩm men Jun.

 

 

Huang Bing (黄炳) (còn được gọi là Yun Qu (云 渠), Yun Yu (云 屿) hoặc Wanhai Jushi (湾 海 居士)) – Ông đã hoạt động trong thời gian Đạo Quang / Quang Tự. Ông nổi tiếng cho đúc chim, động vật và những bức tượng người. Ông đặc biệt nổi tiếng với bức tượng vịt và bức tượng mèo. Có tồn tại nhiều phiên bản giả từ các tác phẩm của ông.

Huang Guzhen (黄 古 珍) (Qiao Gu Shan Ren (樵 谷 山人)) – Ông là chú của Huang bing nhưng trẻ hơn Bing 20 tuổi. Ông đã làm gốm vật dụng dùng cho việc sinh hoạt hàng ngày, ngoài ra ông cũng làm tượng với những bức tượng nhỏ hình con chim, động vật và con người. Ông cũng là một họa sĩ có tay nghề cao và nhiều công trình còn tồn tại của ông được trang trí với màu sắc phong cảnh bằng men với thư pháp độc đáo.

 

Chen Weiyan (陈 谓 岩) (còn được gọi là Yang Yun Jushi (养 云 居士)) – Một thợ gốm nổi tiếng của nhà Thanh Guangxu cho tới thời kỳ Dân Quốc. Ông đã nổi tiếng với bức tượng của mình. Ông từng cùng đệ tử của mình, Pan Yushu tới Jingdezhen để chia sẻ và học hỏi các kỹ thuật của người thợ gốm Jingdezhen. Một số đồ sứ tác phẩm của ông còn tồn tại ở Jingdezhen như Giả Bảo Ngọc, được trang trí bằng overglaze fencai, một kỹ thuật trang trí ông đã học được từ những người thợ gốm Jingdezhen.

 

Ông cũng nổi tiếng với thiết kế chiếc bình tiểu đêm Ba Xiali (巴夏礼 夜壶). Ba Xiali là tên Trung Quốc cho Parkes. Harry Smith Parkes là lãnh sự Anh tại Quảng Đông và được cho là kẻ chủ mưu của cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ hai. Nó dẫn đến cuộc xâm lược của Quảng Đông. Đối với người dân Quảng Đông, ông ta là một nhân vật rất đáng ghét. Chiếc bình tiểu đêm Ba Xiali được dùng để tiểu vào ban đêm Ba Xiali, đã trở thành một thứ để người dân đại lục trút sự tức giận và một biểu hiện của tình cảm chống phương Tây của họ.

Pan Yushu (潘玉 书) Đệ tử của Chen Wei Yan. Ông đã hoạt động trong thời gian Quangxu / thời kỳ Dan Quoc. Ông nổi tiếng với bức tượng nhỏ của mình.


Huo Jin (霍 津) – Thợ gốm thời kỳ Dân Quốc. Có kỹ năng trong mô hình các bức tượng người và động vật. Tác phẩm của ông về con trâu đặc biệt nổi tiếng và xuất sắc làm nó ngang hàng và thường nhắc đến cùng với vịt của Huang Bing.

Ou Qian (区 乾) – Thợ trong giai đoạn cuối của Dân Quốc trở đi. Ông đã khéo léo trong việc tạo ra các bức tượng nhỏ của động vật và chim.

Liu Chuan (刘 传) – Thợ trong giai đoạn cuối của Dân Quốc trở đi. Ông đã nổi tiếng với những bức tượng người của mình. Ông là một người đa tài, ông biết nhiều từ xây dựng lò, lựa chọn đất sét, chuẩn bị men và mô hình hóa.

 

Anthony NGUYEN

Nguồn ảnh bài viết được lấy từ koh-antique và do Jan-Erik Nilsson chup.

Tài liệu tham khảo :

https://en.wikipedia.org/wiki/Shiwan_Ware

http://arts.cultural-china.com/en/31Arts5194.html

http://www.koh-antique.com/shiwan/shiwan.htm

http://gotheborg.com/shiwan/shiwan.shtml

 

1 thought on “Gốm Shiwan thời Minh và Thanh

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.