Vào cuối thế kỷ thứ 19, gần 30 mươi năm trước trường Cao-đẳng Mỹ-Thuật Đông-Dương, nước Việt-Nam đã có một họa sĩ dùng kỹ thuật sơn dầu để hình thành những họa phẩm mà đến nay vẫn còn tồn tại, đó là họa sĩ Lê Huy-Miến.

Chân dung Lê Huy-Miến

 

Trường Cao đẳng Mỹ Thuật Đông Dương ra đời vào năm 1925 đã mở ra một chân trời mới lạ đối với người yêu thích nghệ thuật nước nhà. Các họa sĩ Việt Nam bắt đầu làm quen với những phong cách tân kỳ như phối cảnh, hình khối, màu sắc, ánh sáng…, và nhất là làm quen với một chất liệu vô cùng kỳ diệu trong nghệ thuật vẽ tranh : Sơn dầu.

Dùng sơn dầu để vẽ tranh là một kỹ thuật hoàn toàn xa lạ đối với người Việt chúng ta. Thời ấy, sơn dầu chỉ chủ yếu dùng trong việc sản xuất sơn mài (thủ công trang trí đồ vật như tủ, hộp, tráp, bao gươm, tượng, hoành phi, câu đối, bình phong…)

Vào đầu tháng 11 năm 1963, người ta khám phá tại gia đình ông Nguyễn Cẩm, số 47 phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, Hà Nội, có lưu giữ một tấm tranh đã rất cũ, được đặt trên bàn thờ tổ tiên. Tranh vẽ chân dung một cụ già qua nét sơn dầu.

Sau nhiều thăm dò và tìm hiểu, một kết luận đã được đưa ra : Bức tranh sơn dầu ấy được vẽ năm 1898, gần 30 mươi năm trước khi trường Cao đẳng Mỹ Thuật Đông Dương chào đời, đó là “Chân dung cụ Tú Mền“, tác giả tên Lê Văn Miến.

Lê Văn Miến là ai ?

I. Lê Huy-Miến hay Lê văn Miến?

Riêng về cái tên tác giả, cũng có nhiều điểm cần xét lại.

Theo “Ba họa sĩ cận đại : Lê Huy Miến, Trần Phềnh, Nam Sơn“, (khuyết danh, circa 1963), các anh em của ông đều có chữ lót là “Huy”, như hai người anh tên Lê Huy Xán, Lê Huy Thản, em tên Lê Huy Xuyến, Lê Huy Bút, Lê Huy Điền… Hơn nữa, con trai thứ hai của ông, tên Lê văn Chương, cũng chấp nhận cha mình tên Lê Huy Miến .

Theo gia phả họ Lê, được viết lại khoảng 1995, ghi ông tên Lê Văn Miến. Theo các học trò của ông và bản in ronéo “Phong trào Mỹ thuật thời kỳ Pháp thuộc” của Nguyễn Sỹ Ngọc, tên ông là Lê Văn Miến. Tại Việt nam, năm 2001, ở phường Tây Lộc trong kinh thành Huế có con đường mang tên Lê Văn Miến .

Dù sao, Lê Văn Miến hay Lê Huy Miến cũng chỉ là một người.

Sĩ phu Bắc-kỳ thời Lê Huy-Miến
(ảnh của Docteur Charles-Édouard Hocquard, Lettrés chinois et annamites,
Tonkin 1883-1886, Bibliothèque Nationale de France)

II. Cuộc đời

Xuất thân từ một gia đình vọng tộc, dòng dõi thanh thế quan lại, Lê Văn Miến chào đời năm Giáp Tuất (1874) tại xã Nghi Thuần, làng Kim Khê, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An (nay là xóm Sào Nam, xã Nghi Long). Cha ông tên là Lê Huy Nghiệm , dưới triều Nguyễn thăng trầm nhiều chức quan, lớn nhất là Án sát tỉnh Hải Dương (Sơn Tây). Lúc mới làm quan, Lê Huy Nghiệm giữ chức vụ Huấn đạo tại huyện Quảng Điền, có nhiều học trò nổi tiếng về sau như Hoàng Liên, Hoàng Thông, Nguyễn văn Mại… Sau khi Pháp chiếm Bắc kỳ, Lê Huy Nghiệm lấy lý do về quê để tang rồi ở lại nhà luôn, không muốn cộng tác với quân xâm lược. Mẹ ông tên Hoàng Thị Chiêm.

Là con trai thứ ba trong gia đình gồm 6 trai, 6 gái, thuở nhỏ Lê Văn Miến theo Hán học như các thiếu niên cùng trang lứa, với thầy giáo Nguyễn Thức Tự , và ông đã nổi tiếng học đâu nhớ đó. Ngoài học chữ, ông còn học được nhân cách từ người cha ngang tàng đáng kính, đặc biệt là mở rộng tầm mắt để sớm hiểu được sự an nguy của nước nhà, cùng những khắc khoải của người nghĩa khí khi triều Nguyễn suy vong. Tuy học giỏi nhưng Lê Văn Miến bỏ nhiều khoa không ra ứng thí, phải chăng vì đất nước sa vào vòng thực dân, ông chán cảnh khoa cử để thăng quan tiến chức, vinh thân phù gia ?

Vào năm 1889, triều đình Huế chọn vài người con của một số quan chức, gửi sang Pháp đi học trường Thuộc Địa (École Coloniale) tại Paris . Gia đình quan Án sát Lê Huy Nghiệm lúc đầu định chọn một trong hai người con trai lớn là Lê Huy Xán hay Lê Huy Thản để sang Tây du học, nhưng hai người này không chấp thuận. Người con trai thứ ba là Lê Văn Miến cũng không chịu đi, gia đình phải khuyên giải hết lời, cuối cùng ông đành chấp nhận. Cùng du học với ông là Hoàng Trọng Phu , con trai Tổng đốc Hải Dương Hoàng Cao Khải, và Thân Trọng Huề , con trai Tổng đốc Bình Phú Thân văn Nhiếp.

Thời gian học ở Paris, Lê Văn Miến sớm bộc lộ bản lĩnh và nhân cách của mình, đã lãnh đạo nhiều nhóm học sinh các nước thuộc địa khác đứng lên đấu tranh, đình công bãi khóa, gửi đơn tố cáo đến bộ Thuộc Địa, đòi quyền bình đẳng, chống Hiệu trưởng Etienne Aymonier. Sau này, khi về nước Lê Văn Miến đã nói : “Không học thì thôi, mà đã học thì phải cố gắng học cho thiên hạ biết. Dù trong lĩnh vực nào, nhất là về học vấn, nếu muốn, thì người Việt Nam cũng không chịu thua kém một ai cả. Tôi không muốn học để làm quan, song học để dằn mặt người Pháp thì tôi sẵn lòng” .

Tốt nghiệp trường Thuộc địa tại Paris, Lê Văn Miến không trở về làm quan như hai người bạn đồng học. Vì yêu thích hội họa, ông đã theo học cùng một lúc tại trường Mỹ Thuật Paris, dưới sự hướng dẫn của Jean-Léon Gérôme , một họa sĩ có khuynh hướng đông phương (orientalisme, xuất hiện trong bước đi của chủ nghĩa lãng mạn Pháp nửa đầu thế kỷ thứ 19). Chính vì niềm đam mê hội họa này, Lê Văn Miến đã làm quen với nghệ thuật vẽ sơn dầu rất phổ biến tại châu Âu, nhất là Paris, đưa ông lên làm người đầu tiên vẽ tranh sơn dầu tại Đông Dương .

Ngày tháng học tại xưởng họa Jean-Léon Gérôme, Lê Văn Miến vẫn cố gắng học hỏi cái đẹp của văn hóa Pháp, và trong những dịp nghỉ hè, ông có dịp mở rộng tầm mắt qua các cuộc thăm viếng các nước khác tại Châu Âu như Ý, Tây Ban Nha, Roumanie, Albanie… Vào năm 1894, tại Paris, Lê Văn Miến đã thực hiện bức sơn dầu “Chân dung Nguyễn văn Mại“, chúng tôi sẽ nói đến sau.

Những nổ lực học hỏi của Lê Văn Miến đã được đền bù, năm cuối, với kết quả xuất sắc, ông được giáo sư Jean-Léon Gérôme và trường Mỹ thuật Paris đề nghị với Bộ Học Chính, Mỹ Thuật và Tín Ngưỡng (Ministère de l’Instruction publique, des Beaux-arts et des Cultes) cho ông dự thi Giải thưởng La Mã (Prix de Rome). Niềm vui của ông không được trọn vẹn vì cuối cùng tên ông đã bị xóa khỏi danh sách !

Lê Văn Miến du học 6 năm tại Pháp.

III. Hoạt động chính trị

Lên tàu trở về cố hương năm 1895 , sau nhiều ngày lênh đênh trên biển, Lê Văn Miến đặt chân trên bến cảng Sài Gòn, trong cảnh chen lấn hỗn độn, một thanh niên thuộc hoàng phái nước Cao Miên đã bị tát tai bởi một nhân viên cảnh sát Pháp. Trong tình hình căng thẳng, hai bên đã rút súng, Lê Văn Miến là một trong những người lên tiếng can ngăn , nhưng ông nhận ngay ra nỗi niềm người dân nhược tiểu, sự bất lực trước uy quyền của thực dân. Chính vì vậy, sau đó, khi triều đình Huế mời Lê Văn Miến ra làm quan tại bộ Công, ông từ chối, chỉ ngao du sơn thủy, vui thú yên hà.

Năm 1899, ông ra Hà Nội, ở trọ tại phố Hàng Bông, và phụ trách một công việc khiêm tốn, vẽ minh họa cho nhà in Schneider, nhà in đầu tiên tại Hà Nội . Ông làm việc tại đây khoảng trên dưới một năm, cùng với một đồng nghiệp tên Bùi Huy Tín.

Tiếp theo đó, vào những năm đầu của thế kỷ thứ 20, do mối liên hệ mật thiết giữa hai họ Lê – Đào, Tổng đốc An Tĩnh (Nghệ An / Hà Tĩnh) Đào Tấn  đã mời Lê Văn Miến về Vinh làm việc với mình. Năm 1902, Thành Thái triệu Đào Tấn về kinh nhậm chức Thượng thư bộ Công, Lê Văn Miến đã cùng theo, giữ chức vụ Hành tẩu bộ Công dưới quyền Đào Tấn, phụ trách công việc vẽ bản đồ và kiến trúc cho cung đình Huế. Công việc này đã đưa đẩy ông nhiều dịp gặp Thành Thái, cùng chí hướng chống Pháp, được vua tin dùng, bí mật giao cho ông nhiệm vụ vẽ mẫu súng bộ binh của phương Tây để đem thuê đúc, hòng trang bị cho đội nữ binh của vua trong nội phủ.

Sự thân cận của những người có đầu óc chống thực dân bị chính quyền bảo hộ Pháp nghi ngờ. Khi các bản vẽ vũ khí của Thành Thái bị phát hiện, vua giả điên, cào cấu các bà cung phi và xé nát các bản vẽ. Lợi dụng cơ hội này, Khâm sứ Pháp là Lévêque và Hội đồng Thượng thư vu cho ông bị điên, ép ông thoái vị, hạ lệnh cho đại thần Nguyễn Thân  bức Thượng thư Đào Tấn về hưu và đẩy Hành tẩu Lê Văn Miến về Nghệ An mở trường dạy học, đó là trường Pháp Việt đầu tiên tại Vinh. Thành Thái bị quản thúc tại điện Cần Chánh rồi sau lưu đày sang đảo Réunion.

Vào thập niên 1910, các phong trào Đông du, Đông kinh Nghĩa thục, Duy tân…, dâng lên mạnh mẽ và bùng nổ, cầm đầu bởi những chí sĩ ái quốc như Phan Bội Châu (1867 – 1940), Phan Chu Trinh (1872 – 1926). Tại Vinh, hưởng ứng các cuộc vận động văn hóa chống thực dân Pháp, Lê Văn Miến tham gia tổ chức Hoan Học hội  của vùng Nghệ An, dùng văn hóa tuyên truyền tư tưởng yêu nước trong toàn thể dân chúng.

Tại Nghệ An lúc ấy có quan Công sứ người Pháp tên là Sestier, đồng môn với Lê Văn Miến tại Pháp, vẫn có lòng mến mộ tài năng và tư cách của người bạn xứ An Nam. Biết trước là không thể tránh được cuộc đàn áp đẫm máu giữa mật vụ Pháp và các phong trào yêu nước, năm 1907, Sestier đã dùng tình bạn mời ông đến tòa Công sứ, đề nghị ông nên vào Huế nhậm chức giáo sư hội họa và pháp văn tại trường Quốc Học , để tránh nạn gia đình bị tàn sát. Nhà giáo Lê Văn Miến tại trường Quốc Học Huế trong thời gian này đã có người học trò tên Nguyễn Sinh Cung.

Sau khi phong trào Đông kinh Nghĩa thục tại Hà Nội bị chính quyền Pháp đàn áp và ngăn cấm , Hoan Học hội giải tán, để tránh khỏi việc sa vào vòng lưới của nhà cầm quyền thực dân, năm 1913, người trí thức Lê Văn Miến không tìm được con đường giải thoát nào khác hơn là chấp nhận lời mời của triều đình nhà Nguyễn, đảm nhận vai trò trợ giáo tại trường Hậu Bổ (trường Sĩ Hoạn, École des Mandarins) ở Huế , phụ trách dạy các môn toán pháp, địa dư…, đồng thời được thăng hàm “Hàn lâm viện thị giảng”. Đến cuối năm 1914 được thăng chức Phó Đốc giáo và năm 1919 được làm Đốc giáo. Tại đây, ông đã có những học trò như Lê Thước (1890 – 1975), Hà văn Đạt, Phan Phú Tiết,…

Năm 1923, Lê Văn Miến chuyển sang phụ trách trường Quốc tử giám, trở thành Tế tửu (Đốc học), dạy cả pháp văn. Thời gian này, nhân cách của Lê Văn Miến còn được thể hiện ở trong một kỳ thi tốt nghiệp, ông đã không ngần ngại đánh hỏng người cháu của Thượng thư bộ Lễ kiêm bộ Học, vì người này đem theo tài liệu vào phòng thi. Một lần khác ông không thiên vị tình riêng, đã đánh hỏng bài thi của người cháu gọi mình bằng chú ruột, làm cho quan trường và hội đồng thi rất kinh ngạc nhưng cũng rất kính phục.

Trong những năm Lê Văn Miến làm Tế tửu Quốc tử giám, triều đình Huế xảy ra rất nhiều biến loạn. Sau khi Thành Thái bị đày sang đảo Réunion, Duy Tân lên ngôi, mưu đồ chống Pháp, bí mật liên lạc với Thái Phiên, Trần Cao Vân…, công việc bại lộ, ngày 5/5/1916, Duy Tân cũng theo bước vua cha, bị chính quyền thực dân Pháp đày sang đảo Réunion. Tình hình chính trị tại triều đình Huế rất căng thẳng, Lê Văn Miến giữ thái độ im lặng và dè dặt trước những biến chuyển của thời cuộc, không xu thời cầu lợi danh, chỉ khuyên học trò : “Các anh còn ở trường thì cố gắng học cho đến nơi đến chốn, sau này ra trường rồi thì tùy các anh lựa chọn“. Đối với con cái trong gia đình, ông cũng chỉ bảo : “Chúng mày thấy phải thì cứ theo, cứ làm” . Đến nỗi khi con trai thứ (Lê văn Chương) bị tù vào năm 1928, vì tham gia hội “Thanh niên Tân Việt”, ông tuyên bố : “Nó không đi ăn cướp ăn trộm, thì tôi không xin ra, còn nó làm những việc gì khác, thì nhà nước biết, nhà nước cứ trị” .

Năm 1926, để vinh danh đức độ của thầy mình, các học trò đã mừng Lê Văn Miến một bức hoành phi ghi ba chữ “Thế gian sư” (世間師 – Thầy của thiên hạ), và mượn địa danh nơi chôn nhau cắt rốn, gọi ông là “Kim-Khê phu tử” (金溪夫子).

Hoạt động của Lê Văn Miến luôn luôn bị mật thám Pháp theo dõi, ông như một cái gai trước mắt, chờ chực cơ hội để nhổ đi. Năm 1928, nhân bị nhọt ở lòng bàn tay, Lê Văn Miến vào bệnh viện Huế điều trị, bị tên bác sĩ thực dân tiêm cho mấy ống Acétylarsan, chữa được nhọt bàn tay nhưng gây hại đôi mắt. Ông về hưu vào tuổi 56, vì mắt bị mờ. Khi về hưu ông được thăng “Lễ bộ thượng thư trị sự Thiện đại phu”.

Hai bàn tay trắng và đôi mắt bệnh tật càng ngày càng nặng, Lê Văn Miến đưa gia đình về ở trọ nhà một người học sinh cũ tại làng Thế Chí Đông (huyện Phong Điền). Năm 1938, chuyển sang phường Thái Trạch, (thành nội Huế), trọ tại nhà học trò tên Lê Tứ. Thấy thầy mình đui mù già yếu mà cứ phải bấp bênh ở trọ, đầu năm 1940, một nhóm học trò quyên góp tiền mua cho thầy và gia đình một căn nhà cũ ba gian vách ván, cách Huế 30 km, tại phường Trạch Tả, tổng Phò Trạch.

Cuối đời, đôi mắt người họa sĩ đầu tiên vẽ tranh sơn dầu tại Việt Nam hoàn toàn bị mù, phải bỏ quên giấc mộng về già sẽ dành hẳn cuộc sống còn lại cho hội họa. Ông sống bên cạnh giòng sông Ô Lâu, lặng lẽ và tăm tối.

Lê Văn Miến mất ngày 6/6/1943 (mùng 4 tháng 5, Quí Mùi), hưởng thọ 70 tuổi. Chủ lễ chôn cất người thầy xưa là Nguyễn Tất Đạt (Cả Khiêm), học sinh trường Quốc Học, và Nguyễn Trác, học sinh trường Quốc Tử Giám. Mộ Lê Văn Miến chôn tại xứ Trường An, làng Phước Tích, cách ga Phò Trạch khoảng 3km. Trước mộ có câu đối :

Đạo nghĩa vi bản, trụ tôn duy lập / 道義爲本柱尊惟立

Tiên sinh chi phong, sơn cao thủy trường / 先生之風山高水長

Tạm dịch : Đạo nghĩa là gốc, đất trời bền vững, Phong độ của Thầy, núi cao sông dài.

Sinh thời, Lê Văn Miến được phong tặng Hàn lâm Bội tinh (1919), Cao-Miên Bội tinh (1924), Học chánh Bội tinh, Liên hợp Bội tinh (1928), Bắc Đẩu Bội tinh (1929).

Sau khi qua đời, triều đình Huế truy tặng ông hàm Hiệp tá Đại Học sĩ, Vinh lộc Đại phu, Tùng Nhất phẩm.

Bức hoành phi “Thế gian sư” hiện treo tại chính đường trong nhà thờ họ Lê ở xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.

IV. Tác-phẩm

Cuộc đời họa sĩ Lê Văn Miến trải qua trong sóng gió nô lệ thực dân, tuy có được kiến thức quý báu học từ trường Mỹ Thuật Paris, tiếp thu thuần thục các nguyên lý tạo hình châu Âu, vẽ những tranh sơn dầu đầu tiên trong các gam nâu đen mạnh mẽ và trầm tĩnh, với tính cách hàn lâm, nhưng bản thân con người trí thức có tình thần yêu nước như ông chưa tìm ra lối thoát cho mình, có nhiều thắc mắc không tìm ra đáp án, vì vậy con đường nghệ thuật không nở được kỳ hoa dị thảo. Vẽ gì ? Vẽ cho ai ?

Gom lại, tác phẩm của Lê Văn Miến chỉ là được một số chân dung và rất ít tranh diễn tả sinh hoạt cuộc sống, theo khuynh hướng tả thực, dùng phương pháp Tây phương để trình bày phong cảnh và con người An Nam.

1. “Chân dung Nguyễn văn Mại

Tác phẩm sơn dầu đầu tiên của Lê Văn Miến người ta biết tới là “Chân dung Nguyễn văn Mại“, được hình thành tại Paris vào năm 1894.

Nguyễn văn Mại (1853 – 1945)  là học trò cũ của cụ Lê Huy Nghiệm, phụ thân Lê Văn Miến. Do thân tình quen biết, khi Nguyễn văn Mại đi sứ sang Pháp có tìm gặp Lê Văn Miến và bức tranh được hình thành trong thời gian này. Trong niên kỷ của Nguyễn văn Mại, chúng ta đọc được : “…Lúc ta đi Ba Lê, ông Lê Văn Miến là con thứ tư của thầy ta là Lê Kim Khê , người Nghệ An, cùng hai ông Thân Trọng Huề và Hoàng Trọng Phu, du học tại Pháp. Ông Lê Văn Miến tinh về nghề vẽ, gặp nhau mừng lắm. Ta có xin ông họa chân dung ta. Ông dùng một tấm vải tây và dầu vẽ họa cho ta một bức bán thân. Mỗi buổi sáng đến vẽ một giờ, ba buổi thì xong. Khi về nhà trình cho mẹ ta xem, mẹ ta nói rằng mặt mũi đều giống hệt ta…” (“Lô giang tiểu sử“, trang 88) .

Bức tranh này không biết hiện ở đâu.

2. Chân dung cụ Tú Mền

Khi từ Paris trở về Việt Nam vào năm 1898, Lê Văn Miến đã mang theo rất nhiều dụng cụ và vật liệu hội họa, những thứ mà thời ấy rất còn xa lạ đối với người Việt chúng ta, như sơn dầu trong ống, màu nước…, mà theo lời người nhà của ông : “bày chật cả một bàn” !!! Hẳn ông muốn truyền bá những kiến thức mới mẻ, những ý niệm vừa học được về cái gọi là thẩm mỹ, nâng cao trình độ thưởng thức nghệ thuật trong xã hội lúc ấy chỉ biết hội họa trung hoa và nghệ thuật cổ truyền dân gian ? Nhưng nghệ thuật tây âu “kỳ lạ” ấy không hợp với cái nhìn của người An Nam, và kiến thức tân tiến của Lê Văn Miến như một vì sao chói ngời nhưng lạc lỏng giữa bầu trời đêm, đến nỗi ông vẫn thường tuyên bố “dân ta chưa hiểu biết Mỹ thuật“. Chính vào năm 1898 ấy, Lê Văn Miến đã hoàn thành bức họa “Chân dung cụ Tú Mền” mà chúng tôi đã nói ở đầu bài.

Chân dung cụ Tú Mền” là một bức họa khổ 54×63 cm, chất liệu sơn dầu trên vải thô dầy, căng trên khung gỗ.

Thật ra, trong năm đầu tiên từ Pháp trở về, nhiều gia đình phú hào trong vùng cũng muốn Lê Văn Miến vẽ chân dung, nhưng ông không nhận, dù được trả một số tiền rất lớn vào thời đó, mà theo lời người nhà là “đến 200 đồng !“. Ông chỉ nhận vẽ cho bạn bè và người quen biết.

Riêng về cụ Tú Mền, trước kia cụ là thầy dạy chữ nho của Lê Văn Miến, và cũng là một đông y sĩ đã từng giúp gia đình ông. Cụ Tú Mền tên thật là Nguyễn Vĩnh Mậu, sinh năm 1834, người xã Nam Xuân, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, đỗ tú tài khoa Đinh Mão, năm 1867.

Chân dung cụ Tú Mền

Tại đây, chúng tôi xin dừng lại giây lát, mở một dấu ngoặc, lưu ý quí vị dịch giả, vì cụ Tú không phải tên Mền, như trong quyển “100 peintres et sculpteurs vietnamiens du XX ème siècle“, đã dịch là “Portrait du vieux lettré Mền” . Chúng tôi xin mạn phép đề nghị dịch là “Portrait du bachelier“. Nói thêm, “Tú Kép” hay “Tú Mền” là những danh gọi một cách thân ái và bình dân, dành cho các nho sĩ đã đậu tú tài, bước qua thi Hương nhưng vẫn chỉ đậu… tú tài. Người đậu tú tài hai lần (có nghĩa là lần thứ hai trượt thi Hương), được gọi là “Tú Kép”, nếu trượt thi Hương một lần nữa (ba lần), được gọi là “Tú Mền”. Dân ta theo Khổng giáo, vẫn trọng các các nho sĩ, đều gọi chung là “cụ Tú”. Nếu đặt cho cụ Nguyễn Vĩnh Mậu tên Mền như trong sách kia, sửa đổi tên do cha mẹ đặt ra, thì tội cho cụ quá !

Theo ông Nguyễn Cẩm, cháu nội cụ Tú Mền, để hình thành bức chân dung ấy, thỉnh thoảng ông Miến sang nhà để quan sát và ghi nhớ hình ảnh cụ Tú, nhưng không vẽ tại đấy, mà chỉ làm việc tại nhà riêng của mình. Sau ba tháng, bức tranh được mang đến tặng, cả gia đình đều trầm trồ ngạc nhiên, vì rõ ràng là cụ Tú ở trong tranh, gương mặt phương phi với chòm râu trắng, cái nhìn tinh anh, đầu đội khăn đen, mặc áo dài thâm, quần trắng, đi giày Gia Định màu đen, tay cầm quạt giấy, ngồi trên một ghế dựa. Nền tranh vẽ màu nâu, ngã sang ánh hồng, có ghi hai hàng chữ nho màu đỏ :

Hàng bên trái : 成泰戊戌年寫真,視年六十四歲, “Thành Thái Mậu Tuất niên tả chân, thị niên lục thập tứ tuế“, (Năm Mậu Tuất niên hiệu Thành Thái , chân dung vẽ năm 64 tuổi).

Hàng bên phải, 嗣德丁卯科秀才,年更乙未弎十弎歲, “Tự Đức Đinh Mão khoa Tú tài, niên canh Ất vị tam thập tam tuế“, (Tú tài khoa Đinh Mão  năm Tự Đức, 33 tuổi, sinh năm Ất Vị).

Vì có chữ viết, người đời sau biết chắc chắn rằng tranh được vẽ năm 1898.

Cụ Tú muốn đền công bằng 30 đồng bạc trắng , nhưng dĩ nhiên họa sĩ không nhận. Sau khi cụ Tú Mền qua đời, bức tranh ấy được đưa lên thờ. Khoảng đầu thập niên 70, “Chân dung cụ Tú Mền” đã được viện Bảo tàng Mỹ Thuật Quốc gia (Hà Nội) mua lại, tuy tình trạng tranh không còn nguyên vẹn, vì thời gian đã đi qua, để lại những vết chân hoen ố. Một bản sao, thay thế bản chính, đặt trên bàn thờ tổ tiên nhà ông Nguyễn Cẩm, số 47 phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, Hà Nội.

Nguyễn Phi Hoanh phê bình bức tranh này như sau : “Bức chân dung nhà nho Nguyễn Vinh Mậu cho thấy nghề nghiệp của ông Miến khá vững vàng. Họa sĩ đã biết kết hợp kỹ thuật Tây Âu với tình thần dân tộc

3. Bình văn

 

Đó là một bức tranh sơn dầu có nhiều điều đáng lưu ý, lớn hơn tranh cụ Tú, khổ 68x97cm, được cho là của Lê Văn Miến.

“Lịch sử” bức tranh như sau : Một buổi chiều đầu năm 1971, người ta khám phá ra tại gia đình cụ Nguyễn Đình Chữ, ngõ Thổ Quan, phố Khâm Thiên, Hà Nội, một bức tranh cổ còn giữ được trong tình trạng tương đối tốt đẹp, diễn tả một lớp học chữ nho trong bầu không khí Khổng Mạnh. Toàn thể bức tranh toát ra màu sắc sáng tối trang nghiêm, trầm lặng, giới hạn trong gam nâu, đen, đỏ và trắng. Bố cục hàn lâm vững vàng hình kim tự tháp (pyramidale) mà đỉnh cao là một thầy đồ, râu tóc bạc phơ, tay cầm quyển văn, đại diện cho trí thức, được họa sĩ đặt trên tám người học trò ngồi chung quanh, quần áo chỉnh tề, đầu vấn khăn hay để chỏm, chăm chú nghe lời thầy giảng, làm nền cho bố cục hình tháp.

Bức tranh không tên họ, không tác giả, không khai sinh !

Sau nhiều tìm hiểu, cuộc “phiêu lưu” của bức tranh cổ bắt đầu từ nhà cụ Nguyễn Phúc Đoan ở làng Kim Liên đến nhà cụ Hội (cha cụ Nguyễn Đình Chữ). Năm 1945, cụ Hội giao lại cho con trai Nguyễn Quý Tịch. Năm 1954, từ nhà cụ Tịch chuyển sang nhà người em Nguyễn Đình Phượng. Sau đó cụ Phượng đi Nam, giao lại cho em trai mình Nguyễn Đình Chữ… Từ thuở nhỏ, cụ Chữ (sinh năm 1901) vẫn nhớ bức tranh đã treo ở nhà.

Bình văn

 

Viện Bảo tàng Mỹ thuật ngỏ ý muốn mua lại bức tranh, gia đình ra giá 700 đồng VN, viện Bảo tàng mặc cả 600, kỳ kèo đến ngày 19/8/1972 gia đình túng thiếu nên chấp nhận bán. Bốn tháng sau, ngày 26/12/1972, phố Khâm Thiên bị hoàn toàn phá hủy bởi B.52 của Mỹ, nhà cụ Chữ tan tành, nhưng bức tranh đã về yên phận tại Viện Bảo tàng Mỹ thuật Quốc gia Hà Nội.

Ban chấp hành Viện Bảo tàng (trong thời gian ấy, Nguyễn Đỗ Cung làm Viện trưởng) đã đặt tên cho tranh : “Bình văn“, khai năm sinh 1896, gán cho tác giả Lê Văn Miến !!!

Thái Bá Vân đánh giá bức “Bình văn” :…họa sĩ Lê Văn Miến với bức tranh Bình văn là một cái mốc mà lịch sử mỹ thuật nước nhà chỉ có thể coi là thuận lợi và đẹp đẽ. Nó làm cho hội họa hiện đại Việt Nam có thêm một phần tư thế kỷ tuổi đời và thêm một học vấn vững chãi không lặp lại một lần thứ hai nào nữa” .

Ngày 02/11/2005, viện Bảo tàng Mỹ thuật Hà Nội đã đem bức “Bình văn“, có tuổi gần một thế kỷ, sang nước Đức để đưa vào trường Đại học Công nghệ Kỹ năng Dresden (Technische Universität Dresden) xin được phục chế. Bức tranh có số phận long đong, sáu tuần đi về mỏi mệt mà chỉ được “tân trang sắc đẹp” bằng cách căng lại trên khung mới và bồi thêm phía sau cho chắc chắn mà thôi, phần hư hỏng loang lổ và vết màu tróc còn lại… “miu vẫn hoàn miu” ! Lời giải đáp là khi chụp ảnh bằng tia hồng ngoại, người ta phát hiện ra trên bề mặt của bức “Bình văn” có phủ một lớp dầu trong suốt (vernis) không phải dùng trong việc bảo quản tranh sơn dầu mà là cho tranh… sơn mài ! Trước biến chuyển đột ngột, các chuyên gia Đức không tìm ra loại hóa chất nào có thể tẩy rửa lớp dầu này để có thể tiến hành việc phục chế. Lớp dầu trong suốt này có màu vàng ngà, thường nổi lên trên cùng bát sơn mài khi để lắng. Các hoạ sĩ chuyên về sơn mài hay trải một lớp dầu (gọi là “dầu mặt sơn”) lên tranh để tranh sơn mài được “thoát” (phủ lên trên, vừa bảo vệ và tăng độ bóng cho bề mặt tranh). Thời xưa, các thợ làm tượng truyền thống cũng dùng lớp dầu này phủ lên “da” tượng Phật.

Điều khám phá trên đưa ra một câu hỏi : bức “Bình văn” có phải là của Lê Văn Miến ?

Hơn nữa, “Bình văn” hoàn toàn giống bố cục và hình tượng một bức ảnh của Toàn quyền Đông Dương Paul-Armand Rousseau , chụp khoảng 1894.

Bình văn” không có chữ ký, không ghi năm vẽ , có lẽ vì là một bức tranh cổ nên các nhà chuyên môn tại Việt Nam đánh giá rằng đó là tranh của Lê Văn Miến, vì ngoài ông ra không còn ai có thể hoàn thành bức tranh cổ như thế (?). Sau Lê Văn Miến, họa sĩ Nam Sơn (1890-1973) cũng du học tại trường Mỹ thuật Paris, nhưng nét vẽ và bố cục của Nam Sơn hoàn toàn khác. Ngoài ra, còn có họa sĩ Trần Phềnh (1895-?) cũng vẽ tranh sơn dầu vào đầu thế kỷ, nhưng Trần Phềnh là người tự học, không thể hoàn thành bức tranh có tính hàn lâm cổ điển như bức “Bình văn“.

Câu hỏi trên không có lời giải đáp. Xin nhường lại cho các nhà chuyên môn.

4. Hai bức “Chân dung ông bà Lê Huy Nghiệm“, phụ mẫu của tác giả, sơn dầu, vẽ khoảng đầu thế kỷ (?), vào năm 1963 còn lưu giữ tại gia tộc ở Nghi Lộc (Nghệ An), nhà ông Lê Huy Điệp . Sau cải cách ruộng đất, hai bức tranh trên không còn vết tích, có lẽ đã bị phá hủy trong tai biến.

5. “Chân dung Lê văn Hy“, sơn dầu.

Cụ Lê văn Hy, tổ phụ ông Hồ Liệu, là người đã cho gia đình họa sĩ mượn một số tiền lớn mà lâu ngày không hoàn trả lại được, họa sĩ thực hiện bức tranh này để trả nợ. Cụ Lê văn Hy được vẽ theo bố cục thông thường trong tranh của Lê Văn Miến, chính diện, gương mặt nghiêm trang với chòm râu trắng, ngồi trên ghế, đầu đội khăn đống màu đen, mặc áo dài nâu đỏ, ngã sang đen, quần trắng, chân đi hài đen, hai tay đặt trên thành ghế, nét cọ của sơn dầu còn hiện rõ lên tranh.

Chân dung Lê văn Hy” đã loang lỗ, rạn nứt và nhiều sứt mẻ, hiện còn giữ trên bàn thờ con cháu gia đình ông Hồ Liệu ở Nghi Long (Nghệ An).

6. Hai bức “Chân dung ông bà Nguyễn Khoa Luận“, màu nước, khổ 40x60cm, hoàn thành khoảng 1900.

Cụ ông Nguyễn Khoa Luận ngồi xếp bằng trên ghế đặt trên thảm, để râu trắng nhưng mặt mũi phương phi tươi trẻ, đầu chít khăn đỏ, mặc áo sòng màu sám, quần trắng, cổ đeo tràng hạt dài phủ gối, tay trái cầm quyển kinh, tay phải cầm quạt lông. Sau khi thi đỗ cử nhân và học Trường Quốc Tử Giám, cụ được cử giữ chức Bố Chánh tỉnh Thanh Hoá. Khi vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần vương và giặc Pháp đưa Đồng Khánh lên ngôi, cụ treo ấn từ quan, bỏ đi tu, chính vì vậy hình ảnh cụ được diễn tả trong bộ áo sòng. Cụ qua đời năm 1900, có lẽ sau khi hoàn thành bức tranh nói trên một thời gian ngắn.

Cụ bà Nguyễn Khoa Luận ngồi trên ghế gỗ chạm đặt trên thảm dệt màu xám lợt, mặt mũi tinh anh nghiêm chỉnh, trán cao, tóc búi rẻ giữa, mặc áo dài đen, quần trắng, chân đi hài đen, tay trái cầm quạt lông (có lẽ cùng quạt lông trong tranh vẽ cụ ông), tay phải đặt trên thành ghế. Chân dung cụ nổi lên trên nền một tấm thảm dệt hoa văn rất đẹp, phía sau là một bức tường vôi đỏ.

Cụ Nguyễn Khoa Luận là nhạc gia của Lê Văn Miến, giữ chức Bố chánh Thanh Hoá. Năm 1885, khi Hàm Nghi thiên đô về Tân Sở thì cụ Nguyễn Khoa Luận bỏ quan đi tu, lập ra chùa Ba La (Vỹ Dạ, Huế). Hai bức chân dung nói trên hiện vẫn còn giữ được nguyên vẹn tại ngôi chùa này, chúng tôi đã có dịp tận mắt chiêm ngưỡng.

7. “Chân dung Đào Tấn“.

Sau khi kết bạn vong niên với Đào Tấn do lòng mến trọng tài năng và tư cách, thêm nữa, cả hai cùng theo một con đường yêu nước chống thực dân ngoại xâm, Lê Văn Miến đã vẽ cho họ Đào mấy bức chân dung.

Bức thứ nhất vẽ bán thân, Đào Tấn đội khăn xếp, mặc áo sa mỏng. Bức tranh này được in lại ở đầu tập “Kỷ yếu về Đào Tấn” do ty Văn hóa Nghĩa Bình xuất bản .

Bức thứ hai vẽ toàn thân, Đào Tấn chít khăn vành, đầu tóc búi, mặc áo sa mỏng màu đen, quần trắng, chân đi giày hạ, nét mặt vui tươi. Bức tranh này có lẽ được chụp lại và in trong quyển “Souvenir d’Annam (1886 – 1890)” của Baille .

8. “Chân dung Hoàng Cao Khải “, sơn dầu, phải chăng hình thành trong lúc Lê Văn Miến làm việc tại Hà Nội (khoảng 1899 – 1900 ?), khi đến thăm bạn học cũ là Hoàng Trọng Phu. Đây là một chân dung khổ tương đối lớn, theo lời ông Lê văn Chương, con trai của họa sĩ, thì “lớn hơn mặt bàn“, vẽ Hoàng Cao Khải đang ngồi, mặc triều phục. Vào năm 1955 – 1956, bức tranh này vẫn còn thấy xuất hiện trong cuộc triển lãm cải cách ruộng đất tại Hà Nội.

9. “Chân dung vua Thành Thái

Trong khi Lê Văn Miến giữ chức vụ Hành tẩu bộ Công tại Huế, Đào Tấn đã tiến cử họa sĩ vào cung để vẽ chân dung cho Thành Thái, đồng thời kể chuyện văn minh phương Tây cho vua nghe. Bức “Chân dung vua Thành Thái” được hoàn thành trong khoảng thời gian này, không biết chất liệu, có lẽ sơn dầu, trình bày cảnh Thành Thái ngồi hóng mát ở nhà Lương Tạ, trước Phú Văn Lâu, bên sông Hương. Nhà vua xem tranh rất thích, ban thưởng họa sĩ được ngồi ăn cơm với mình. Đây là một cử chỉ vô tiền khoáng hậu tại chốn cung đình.

10. “Chân dung vua Khải Định

Khoảng năm 1917, khi Lê Văn Miến làm việc tại trường Hậu Bổ, Khải Định vời vào cung, tiếp đãi ân cần và yêu cầu vẽ một bức chân dung. Vì không thể từ chối, Lê Văn Miến bắt buộc phải vẽ. Khải Định xem tranh, rất ưng ý, hỏi “Ông có cần gì không ?“. Ông trả lời ngay “Tôi chỉ muốn bóng của tôi vẽ giống như bóng của Hoàng thượng“. Theo ông Lê Văn Chương, con trai trưởng của Lê Văn Miến cho biết, khi về đến nhà, vứt bỏ các vật dụng dùng để vẽ trong dịp ấy .

11. Hai bức “Chân dung ông bà Hồ Đắc Trung “, sơn dầu, khổ nhỏ vừa phải, vẽ hai vợ chồng đang ngồi. Theo Hồ Đắc Điềm, tranh này còn giữ tại Huế vào thập niên 70.

12. “Chân dung ông Menderès“, sơn dầu. Menderès là bác sĩ tại Huế, bạn của Lê Văn Miến hồi còn ở Paris.

13. “Điện Ngọc trai“, thuốc nước, và “Cầu Trường tiền“, bột màu, là hai bức phong cảnh, thuộc bộ sưu tập Menderès.

14. “Chân dung con trai ông Carlotty“, sơn dầu.

Trên đây chỉ là sơ lược một số tác phẩm của Lê Văn Miến. Nghe nói họa sĩ vẽ rất nhiều tranh, nhưng không còn tìm ra được vết tích. Cụ Hạp, học trò Lê Văn Miến, cũng là người được họa sĩ chỉ bảo đôi chút về hội họa, cho biết lúc rảnh rỗi họa sĩ còn trau dồi khả năng bằng cách vẽ phong cảnh và tĩnh vật, vẽ rất nhiều, và dạy học trò rằng “phong cảnh Việt Nam rất khó vẽ vì màu sắc Việt Nam không cố định“.

Thời ấy, người biết vẽ tranh theo “kiểu Tây” trên đất Việt không nhiều, hay nói đúng hơn là không có ai, Lê Văn Miến có thể làm giàu và leo lên bức thang danh vọng không phải là khó, nhưng ông chỉ vẽ tranh để làm vui, vì lòng mến phục, đôi khi vì ân tình, chứ không vẽ thuê.

Khi còn dạy tại trường Quốc Học, nghe danh tiếng họa sĩ vẽ chân dung như thật, thần sắc không sai, lời ca ngợi đồn đến tai viên Công sứ (Calotty ?) nên ông ta đem vợ con đến thiết tha xin được vẽ chân dung. Không thể từ chối, và cũng muốn cho người Pháp biết tài năng của dân xứ An Nam, bức chân dung đã được hoàn thành, nghe nói đặt tên “Mẹ con người đàn bà Pháp và con mèo nhỏ“. Công sứ và họa sĩ nhìn nhau, Công sứ hỏi bao nhiêu tiền, họa sĩ trả lời tiền công là 30 đồng, cả một gia tài thời ấy. Công sứ tái mặt móc tiền ra đưa, họa sĩ dùng tiền trả ngay cho người thợ mộc đóng khung trước mặt Công sứ, ông ta mới hiểu được bức chân dung là vô giá.

V. Gia đình

Không biết Lê Văn Miến lập gia đình ở tuổi bao nhiêu, nhưng biết ông có năm bà vợ và một tình duyên dang dở. Chánh thất của ông tên Tôn Nữ Thị Kim (con gái Thượng thư Bộ Công Tôn Thất Tịnh). Bà này mất sớm, ông tục huyền với Tôn Nữ Thị Vân (em cùng cha khác mẹ với bà Kim)

Một trong hiền thê của ông thuộc gia đình Nguyễn Khoa Luận, tên Nguyễn Khoa Văn Thanh, húy Nguyễn Khoa Thị Thành (vợ thứ 3).

Người vợ tiếp của ông tên Nguyễn Khoa Diệu Giám (kêu bà Văn Thanh bằng cô ruột, là con gái của Cử Nhân Nguyễn Khoa Trạm), và bà vợ thứ 5 tên Cao Thị Gia.

Thuở ông còn nhỏ tuổi, trước khi du học Paris, thân phụ ông là Lê Huy Nghiệm đã dự định kết nghĩa thông gia với gia đình Cao Xuân Dục, cùng là người xứ Nghệ, lại cùng đỗ đồng khoa cử nhân (năm Mậu Dần, 1878), gả ái nữ Cao Ngọc Anh cho ông. Khi Lê Văn Miến du học Paris, không biết vì lý do riêng tư nào, ông đã viết thư về cho gia đình, viện cớ đôi bên không “môn đăng hộ đối”, (gia đình cụ Cao giàu có, thế gia vọng tộc, bên họ Lê thì nhà nghèo, quan nhỏ), bản thân thì đang du học ở xa, chưa biết lúc nào về, chẳng nên bắt Cao tiểu thư chờ đợi lâu… Sau này, cụ Cao Xuân Dục gả bà Cao Ngọc Anh cho ông Nguyễn Huy Nhiếp, án sát tỉnh Sơn Tây, nhưng số phận éo le, bà sinh được 3 người con thì ông Nguyễn Huy Nhiếp qua đời, khi bà chưa đầy 30 tuổi. Cao Ngọc Anh sau này là một nữ sĩ nổi danh một thời đất Hồng Lam . Riêng về Lê Văn Miến, có chăng khi rời bỏ kinh đô ánh sáng Paris, đã để lại một mối tình với người mắt xanh ?…

Lê Văn Miến có 11 người con, 7 trai, 4 gái. Những con trai ông tuy không được học nhưng cũng biết vẽ. Gia đình họ Lê ở làng Kim Khê rất yêu thích hội họa, hẳn nhiên có sự giáo dục truyền từ Lê Văn Miến. Anh trai của Lê Văn Miến là Lê Huy Thản có người cháu đích tôn hiện theo sự nghiệp dở dang của ông cha, đó là Lê Huy Trấp , và một người cháu theo hội họa, tên Lê Huy Tiếp.

VI. Kết luận

 

Cuộc đời của Lê Văn Miến là cuộc đời một nhà giáo yêu nước khẳng khái, quan trọng hơn là đời một họa sĩ. Các tác phẩm của ông chỉ có giá trị thời gian, không hẳn là những viên ngọc quý trong nền Mỹ thuật Việt Nam, nếu xét theo giá trị nghệ thuật tinh túy. Tác phẩm của ông, phần lớn là chân dung sơn dầu, có tính cách hàn lâm, chịu ảnh hưởng những nét nghiêm chỉnh, khô cứng, với bút pháp minh bạch, cẩn trọng, trầm lặng. Tuy nhiên, những bức tranh sơn dầu đầu tiên vẽ tại Đông Dương của Lê Văn Miến chứng tỏ vào cuối thế kỷ thứ 19, đã có người Việt Nam đi theo giòng nghệ thuật bác học tây phương, nhưng những tác phẩm ấy lẻ loi, đơn độc, chứng nhân duy nhất, sáng lên một lần, rồi chìm hẳn đi, cho đến khi trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương chào đời vào năm 1925, mở ra một nền Mỹ thuật độc đáo, góp tiếng nói riêng biệt vào kho tàng nghệ thuật thế giới.

Thành phố hoa Xoan, mùa Thu 2001 – mùa Đông 2008

Hiệu đính tháng 4/2013, với những hình ảnh do gia đình Lê Văn Miến cung cấp

* Ngô Kim Khôi : định cư tại Pháp từ 1985, chuyên môn về tạo mẫu thời trang (modeliste), hiện làm việc cho các nhà Christian Dior, Hermès, Givenchy, Scherrer… Tự học vẽ, học đàn và học hát. Ngoài ra, còn là giáo sư Thái cực quyền.

Tài liệu tham khảo :

Ba họa sĩ cận-đại: Lê Huy-Miến, Trần Phềnh, Nam-Sơn, khuyết danh, bản thảo in ronéo, viết khoảng 1963.

Dictionnaire des peintres, sculpteurs, dessinateurs et graveurs, E. Bénézit, Grund, Paris 1976.

Les petits maîtres de la peinture, G. Schurr, 1972.

Souverains et Notabilités d’Indochine, Toàn-quyền Đông-Dương, l.D.E.O., Hà-Nội 1943.

100 peintres et sculpteurs vietnamiens du XXème siècle, nxb Thế-giới, 1996.

[1] Ba họa sĩ cận-đại: Lê Huy-Miến, Trần Phềnh, Nam-Sơn, khuyết danh, 1963, tr 9. Sau này (1979), con út của ông tên Lê văn Yên, cải chính rằng tên cha mình là Lê văn Miến!!!

[2] Trường Thuộc-Địa được thành lập năm 1889 dưới nền đệ Tam Cộng-hòa Pháp, tại số 2 đại lộ Observatoire, Paris. Trước đó, trường là một trung tâm thực tập (stage), hoạt động từ năm 1885 dưới cái tên là trường Căm-Pu-Chia (École cambodgienne). Trường Thuộc-Địa là một trường hành chính, đào tạo cán bộ công chức cho chính quyền thuộc địa, chương trình học kéo dài từ 2 đến 3 năm với số học sinh từ 11 đến 50 người. Năm 1934, trường được đổi tên là trường Hải-ngoại Quốc-gia Pháp (École nationale de la France d’outre-mer), nhưng vẫn được gọi một cách thân thiết là trường “Colo.” Qua nhiều thăng trầm, năm 2002, trường sát nhập với trường Quốc-gia Hành-chính (École nationale d’administration) cho đến ngày nay. Trường Thuộc-Địa đã từng có Paul Mus (1902-1969) làm Hiệu trưởng. Nguyễn Tất-Thành đã có lần nộp đơn xin vào học tại trường Thuộc-Địa, đơn viết tại Marseille ngày 15/9/1911, bị trường từ chối cùng năm. (Bộ Lưu-trữ Quốc-gia Pháp, Aix-en-Provence, thùng 326, hồ sơ số 2637. Nguyễn Thế-Anh, L’itinéraire politique de Hô Chi-Minh, Việt-Nam Infos).

[3] (1872-?). Sau khi du học tại Pháp trở về, Hoàng Trọng-Phu thẳng tiến trên hoạn lộ với bước đầu làm Bang-tá viện Cơ-mật, sau đó làm Bang-tá Kinh-lược Bắc-kỳ, rồi Đốc-học trường Hậu-Bổ đến năm 1903. Từ năm 1903, ông thăng chức Tuần-phủ rồi Tổng-đốc Bắc-Ninh. Năm 1907, Tổng-đốc Hà-Đông cho đến năm 1937 thì về hưu. Năm 1913, thăng Thái-tử Thiếu-bảo, năm 1934 được phong Võ-hiển Đại-học sĩ. Ông là con rể của Tổng-đốc Đỗ Hữu-Phương (Tổng-đốc Phương).

[4] (1869-1925). Người làng Nguyệt-Biều, huyện Hương-Thủy, tỉnh Thừa-Thiên. Mồ côi cha lúc 4 tuổi, ông được anh rể là Tham tri bộ Lễ Trần Thúc-Nhân đưa về Huế ăn học. Ông tốt-nghiệp thủ khoa trường Thuộc-Địa tại Paris. Về nước được bổ hàm Biên-tu viện Cơ-mật, sung chức Ngự-tiền Thị-thơ. Do tính ngay thẳng, ông bị cách chức, sau đó ra Hà-Nội làm việc tại phủ Toàn quyền Đông-Dương. Năm 1905, là Đốc-học trường Hậu-Bổ, sau làm Án-sát các tỉnh Bắc-Ninh, Hưng-Yên, Hải-Dương. Năm 1913 được thăng Tổng-đốc, sau làm Bồi-thẩm tòa Thượng-thẩm Hà-Nội. Năm 1922, vua Khải-Định vời về Huế sung Cơ-mật viện, kiêm Thượng-thư bộ Học và bộ Binh. Năm 1925, gia hàm Thái-tử Thiếu-bảo. Ông mất ngày 17/7/1925, được truy tặng Đông-các Đại-học sĩ. Con rể ông là Trần văn Chương, (thân sinh của “Người đàn bà nhũ danh Trần Lệ-Xuân,” tức là bà Ngô Đình-Nhu). Cha của Đông-các Thân Trọng-Huề tên Thân văn Nhiếp, người dâng hai chữ “Tự-Đức” cho Nguyễn-Phúc Hồng-Nhậm, là một vị quan thanh liêm, cương trực, tác giả của nhiều sớ tấu có giá trị dưới thời vua Tự-Đức.

[5] Sinh ngày 11/5/1824 tại Vesoul (Haute-Saône), từ trần ngày 10/1/1904 tại Paris. Tốt nghiệp trung học năm 1840, Jean-Léon Gérôme theo học trường Mỹ thuật Paris dưới sự hướng dẫn của Paul Delaroche (1797-1856). Năm 1844, làm việc trong xưởng vẽ của họa sĩ người Thụy-Sĩ Charles Gleyre (1808-1874). Năm 1864, ông là giáo sư trường Mỹ thuật Paris, năm 1865 hội viên Bác-học viện (l’Institut de France), và sau đó, năm 1893, Chủ tịch Danh dự hội Các họa sĩ khuynh-hướng đông-phương (Société des Peintres orientalistes). Tranh của Jean-Léon Gérôme trong bảo tàng Louvre: Combat de coqs; bảo tàng Orsay: Jeunes grecs faisant se battre des coqs; bảo tàng Londres: Soldat arabe, La Garde du sérail

[6] Trước Lê Huy-Miến, rất có thể đã có người vẽ tranh sơn dầu ở Đông-Dương, nhưng cho đến nay chưa một tài liệu nào chứng minh điều ấy.

[7] Ba họa sĩ cận-đại: Lê Huy-Miến, Trần Phềnh, Nam-Sơn, sđd, tr 13.

[8] Năm 1893, tại khu vực viện và chùa Châu-Lâm (còn gọi là chùa Bà Đanh), bên hồ Tây, Schneider dựng lên nhà in và xây một biện thự ở mỏm đất tên là “Mỏ Phượng” (Phượng-chủy). Khu vực này, vào năm 1907, trở thành một ngôi trường nổi tiếng tại Việt-Nam, trường Bưởi (trường Bảo-Hộ, sau đổi tên thành trường Chu văn An).

[9] (1845-1907), thuộc dòng-dõi Đào Duy-Từ, đỗ Cử-nhân năm 1867, Tổng-đốc Nghệ-An, Hiệp-tá Đại-học sĩ. Ông còn là nhà lý luận sáng tác tuồng lừng danh, với các vở như Quần trân hiếu thoạ, Tứ Quốc lai vương

[10] Con gái Nguyễn Thân được tiến cung, là đệ nhất giai phi của Thành-Thái, nhưng vẫn không được vua coi trọng vì Nguyễn Thân có tinh thần xu phụ Pháp.

[11] Một học hội tại Châu Hoan, Nghệ-An, liên hệ với Đông-kinh Nghĩa-thục tại Hà-Nội. Ngoài ra, còn có các học hội khác trên toàn đất nước như Triều-dương thương-cuộc tại Nghệ-An, Thương-học công-ty tại Quảng-Nam…

[12] Quốc-học Huế là ngôi trường đầu tiên dạy văn minh, văn hoá Tây phương ở Việt-Nam. Trường được thành lập vào ngày 23/10/1896 theo dụ của Thành-Thái và được Toàn quyền Đông-Dương ký quyết định ngày 18/11/1896. Trường đã đổi tên qua nhiều thời kỳ: Quốc-học (1896-1936), Trung học Khải-Định (1936-1954), Trung học Ngô Đình-Diệm (1955-1956) và được trở về với tên gốc vào năm 1956 cho đến nay.

[13] Đông-kinh Nghĩa-thục chỉ hoạt động trong thời gian gần 9 tháng (từ tháng 3 đến tháng 12/1907), tại phố Hàng Đào.

[14] Trường đào tạo ngạch quan cai trị hành chính cho người bản xứ ở Đông-Dương thời thuộc Pháp. Trường đầu tiên thành lập 20/6/1903 ở Hà-Nội và sau đó là trường ở Huế, thành lập 5/5/1911. Nguồn tuyển chọn của trường từ những cử nhân, tú tài cựu học, “ấm sinh” (con quan lại cao cấp có công với Pháp)… Sau khi ra trường sẽ được bổ làm tri phủ, tri huyện, huấn đạo, giáo thụ… Ngày 18/41912, trường Hậu-Bổ ở Hà-Nội đổi tên gọi là trường Sĩ-Hoạn (École des Mandarins). Tháng 10/1917, theo Nghị định của toàn quyền Đông Dương Sarraut, các trường trên đều bị xoá bỏ và thay thế bằng trường Pháp-Chính (École de Droit et d’Administration). Mục tiêu đào tạo vẫn như Trường Hậu-Bổ nhưng hoàn thiện hơn theo hướng đào tạo quan lại cai trị người Việt theo “ngạch Tây.” Trường Hậu-Bổ đã từng có Nguyễn Đình-Hoè là Giám-đốc.

[15] Ba họa sĩ cận-đại: Lê Huy-Miến, Trần Phềnh, Nam-Sơn, sđd, tr 14.

[16] (1853-1945), hiệu Lô-Giang, đỗ Thủ khoa (Hương-nguyên) và Phó-bảng năm 1884 (Thành-Thái thứ nhất). Làm quan các triều Thành-Thái, Duy-Tân, Khải-Định. Thăng chức Thượng-thư, Thiếu-bảo, Hiệp-tá Đại-học sĩ.

[17] Tức là cụ Lê ở làng Kim-Khê.

[18] Nguyễn Văn Mại viết hồi ký đời ông bằng chữ Nho, lấy hiệu (Lô-Giang) làm tên sách. Sách viết xong năm 1932, được người con là Nguyễn Hy-Xước dịch sang chữ quốc ngữ năm 1947, và in ronéo tại Huế năm 1961.

[19] Nxb Thế-giới, 1996, tr 16, nhưng ghi năm sáng tác là 1896, khổ 49×60 cm.

[20] Tức là năm 1898.

[21] Tự-Đức thứ 20, tức là năm 1867. Trong 12 con giáp không có con vật nào tên Vị. Năm Vị xin hiểu là năm Mùi, bởi vì xưa kia chữ Mùi có thể là chữ kỵ huý cho nên tránh không dùng. Chữ Mùi Vị là cận kề, nên thay chữ Mùi thành Vị cho dễ nhớ.

[22] Còn gọi là “bạc hoa xòe.”

[23] Lược sử mỹ thuật Việt-Nam, nxb Tp Hồ Chí Minh, 1984.

[24]Kỷ niệm về bức tranh Bình văn…”, Thái Bá-Vân, in trong Kỷ yếu Viện Bảo-tàng Mỹ thuật, số 7, 1991.

[25] Theo 100 peintres et sculpteurs vietnamiens du XX ème siècle, tr 17, bức Bình văn được vẽ vào năm 1905; theoMỹ thuật hiện đại Việt-Nam (nxb Mỹ Thuật Hà-Nội), và Mỹ thuật thủ đô Hà-Nội thế kỷ 20 (nxb Mỹ Thuật Hà-Nội) đều ghi là năm 1898, nhưng không có gì để chứng minh.

[26] Nxb Plon, Paris1890.

[27] (1895-1933), người làng Đông-thái, tỉnh Nghệ-An (tên thật là Hoàng văn Khải). Dưới triều Thành-Thái, làm Thượng thư bộ Binh, Phụ chính đại-thần rồi Thái tử Thái phó. Tuy là người có tài văn học, nhưng các sĩ phu nước nhà đều coi khinh Hoàng Cao-Khải, do việc cộng tác với Pháp (Hoàng Cao Khải đã từng viết thư chiêu-hàng Phan Đình-Phùng). Các con cháu ông như Hoàng Mạnh-Trí, Hoàng Trọng-Phu hay Hoàng Gia-Mô đều giữ các chức vụ quan trọng dưới triều Nguyễn.

[28] Thượng thư, Tổng tài Quốc-sử-quán, có các con trai là Thượng thư Hồ Đắc-Khải, Tổng đốc Hồ Đắc-Điềm, thạc sĩ Y khoa Hồ Đắc-Di, kỹ sư Hồ Đắc-An, Hồ Đắc-Liên…

[29]Cao Ngọc Anh trong làng thơ Việt Nam,” Nguyễn Khắc-Phê, tạp chí Sông Hương số 5/1997.

Born in Nghe An. As the first Vietnamese  learned in Paris National Fine arts College from 1889 to 1894; A schoolboy of Professor J.L Georomeres of  classic style. Le van Mien is the first Vietnamese  painter to learn and use  Western oil  painting techniques under the methodology of French school in late 19th century.  He showed a stable , accurate and experienced  style of painting in colour and light. Le Van Mien’ s works of art  focused on relatives’ and friends’ portraits.

1 thought on “Họa sĩ Lê Huy-Miến (1873-1943): Cuộc đời và tác phẩm

  1. trước Lê Văn Miến chắc chắn đã có nhiều ngừoi vẽ sơn dầu, bằng chứng là còn một số bức tranh trong các nhà thờ mô tả những tích ‘tử vì đạo’;
    hơn nữa, những bức tranh sơn dầu trong các nhà thờ ở xứ Đông Dưong cũ đó có tuổi đời cao hơn nhiều bức ‘bình văn’ (hiện nay khả năng không phải của Lê Văn Miến đã được các nhà nghiên cứu chứng minh: bút pháp và kỹ thuật kém xa tài cụ Miến);

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.