Một tác phẩm tranh cổ, nếu không được hoạ sĩ chú thích năm sáng tác, sẽ làm khó rất nhiều các chuyên gia trong việc tìm ra tuổi thọ của tác phẩm này.  Tuy nhiên đây lại là một điều rất quan trọng, nhất là với các nhà đấu giá, bởi nếu tác phẩm được ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt nào đó, giá trị của nó sẽ tăng theo cấp số nhân trên thị trường.

Để xác định hay dự đoán năm sáng tác của một tác phẩm nghệ thuật có rất nhiều phương pháp. Người ta có thể sử dụng những phương pháp vật lý, như những phép thử nhiệm về sự hấp thụ ánh sáng đặc biệt lên chất liệu sử dụng, cho tới việc sử dụng những công nghệ tiên tiến, như ứng dụng  trí tuệ nhân tạo trong xử lý hình ảnh, cho việc phân tích kỹ thuật vẽ, hình họa, bố cục, cách pha màu, lớp màu, etc. Tuy nhiên độ chính xác của những phương pháp tùy thuộc vào từng điều kiện cụ thể và cũng dễ bị người làm tranh giả có kinh nghiệm qua mặt.

Một thực tế là để thẩm định một tác phẩm nghệ thuật, một chuyên gia cần phải có kiến thức rất rộng, họ không những phải nắm bắt và ứng dụng được sự phát triển khoa học công nghệ của những nghành liên quan, mà còn phải là một chuyên gia về lịch sử nghệ thuật, một nhà phê bình nghệ thuật. Bởi những kiến thức về mỹ thuật, lịch sử mỹ thuật, những hiểu biết về tác giả, quá trình sáng tác của tác giả, sẽ cho họ có một nhận định chuẩn xác hơn về một tác phẩm, và đôi khi những điều này cũng đã đủ để có thể xác định tuổi thọ một bức tranh một cách khá chính xác. Hãy cùng thử đánh giá lại năm sáng tác của một tác phẩm theo phương pháp này nhé?

Thiếu nữ Nhật bản, chất liệu sơn dầu, được bảo tàng mtvn và wikipedia chú thích vẽ năm 1942.

Ví dụ đầu tiên mà chúng ta cùng xem xét trong bài này là bức “Thiếu nữ Nhật Bản”, thuộc bộ sưu tập của bảo tàng mỹ thuật Việt Nam. Một tác phẩm được vẽ bằng chất liệu sơn dầu, bởi họa sĩ Lương xuân Nhị. Bức tranh được trưng bày tại tầng 2, trong cùng căn phòng lưu trữ những tranh quan trọng nhất của bảo tàng, như bức “Bình văn”, chất liệu sơn dầu, vẽ bởi hoạ sĩ Lê Huy Miến, là bức sơn dầu đầu tiên trong lịch sử mỹ thuật Việt Nam. Hay bức bình phong “Dọc mùng” của Nguyễn gia Trí, “em Thuý” của Trần văn Cẩn, sơn mài “Gióng” của Nguyễn tư Nghiêm,  “bác Hồ ở chiến khu việt bắc” của Dương bích Liên, đều là những bảo vật quốc gia được TTCPVN công nhận.

Có thể nói những tranh treo trong căn phòng trên đều là những tranh quan trọng nhất của bảo tàng và đều là những tranh liên quan tới lịch sử phát triển của trường mỹ thuật Đông Dương, một giai đoạn quan trọng của lịch sử mỹ thuật Việt Nam. Nếu bạn đọc đã từng thăm quan gian phòng trưng bày này của bảo tàng, hẳn các bạn đã có rất nhiều câu hỏi đặt ra như người viết khi xem bức “Thiếu nữ Nhật Bản” của Lương xuân Nhị. Tại sao trong phòng tranh lịch sử này lại lọt thỏm bức chân dung thiếu nữ Nhật? Nó có mối liên hệ gì với những tranh khác trong cùng gian phòng? chú thích của bảo tàng dành cho bức “Thiếu nữ Nhật Bản” của họa sĩ Lương xuân Nhị là được vẽ vào năm 1942.  Kết luận này của bảo tàng liệu đã đúng chưa? Hãy cùng tìm hiểu lý do người viết có những câu hỏi này nhé.

Thời điểm năm 1940, khi quân Nhật tràn vào Đông Dương, là một thời điểm nóng về chính trị, nhưng một thực tế là chính phủ Pháp và Nhật đã có rất nhiều hoạt động trao đổi văn hoá khi đó. Một số giáo sư của Nhật và Pháp đã được cử sang hai nước tổ chức nghiên cứu học hỏi văn hoá, trong đó hai giáo sư là Victor Goloubew của trường viễn đông bác cổ EFEO, và Ota của đại học hoàng gia Tokyo, từng qua Tokyo và Hanoi tổ chức hội thảo. Nhiều sinh viên Nhật, Pháp, Việt được cử đi trong trương trình trao đổi du học 3 đến 5 năm. Xuất hiện tại miền Bắc việt nam không chỉ là những người lính Nhật, mà còn có cả dân thường Nhật bản. Như vậy một bức tranh vẽ chân dung cô gái Nhật vào năm 1942 của họa sĩ Lương xuân Nhị, có thể được giải thích bằng cách này hay cách khác một cách đơn giản, như họa sĩ thuê người mẫu Nhật để vẽ, hay họa sĩ được một quí bà/cô Nhật thuê vẽ. Tuy nhiên người viết cho rằng bức tranh “Thiếu nữ Nhật Bản” của họa sĩ Lương xuân Nhị không phải được vẽ vào năm 1942, như bảo tàng đã chú thích, mà được vẽ trong khoảng tháng 6-7-8 năm 1943. Tại sao vậy?

Ảnh trái, Foujita vẽ họa sĩ Nam sơn năm 1941. Ảnh Phải, Foujita vẽ chân dung cô gái Bắc kỳ năm 1941. 

Thời điểm những năm 41-42, trong chương trình trao đổi văn hóa giữa Nhật và Pháp có hai hoạt động mỹ thuật nổi tiếng, được báo chí hai nước đăng tải rất nhiều, là đợt triển lãm tháng 10-12 năm 1941 của các hoạ sĩ tên tuổi Nhật Bản (như Foujita, Yokoyama Taikan, Hashimoto Sekisetsu) tại Hà nôi, Hải phòng, Huế và Sài gòn và tiếp đó là triển lãm của họa sĩ Takanori Ogisu năm 1942 tại Hanoi. Các tư liệu lưu trữ cho thấy hoạt động trao đổi giữa những họa sĩ Nhật và họa sĩ MTDD thời gian này chủ yếu là các họa sĩ Nhật vẽ về Việt Nam.

 

Họa sĩ Nam Sơn, Lương xuân Nhị và Nguyễn văn Tỵ, trong đợt tham quan 70 ngày tại  Nhật bắt đầu từ tháng 6 năm 1943 @ ảnh NGÔ KIM-KHÔI, ảnh lấy từ internet.

Tới năm 1943, chính phủ Pháp cử một đoàn gồm ba hoạ sĩ Việt Nam là Nam Sơn, Lương Xuân Nhị, Nguyễn văn Tỵ sang Nhật. Chuyến tham quan kéo dài 70 ngày bắt đầu từ tháng 6 năm 1943, với mục đích chính là tổ chức một triển lãm tranh Đông Dương trước công chúng Nhật, ngoài ra ba hoạ sĩ còn có nhiệm vụ tham quan, giao lưu và nghiên cứu về đất nước con người Nhật. Tại đây họ đã vẽ một loạt những tranh phong cảnh đất nước và con người Nhật Bản. Và đây, theo người viết, mới là hoàn cảnh ra đời của bức “Thiếu nữ Nhật bản” của họa sĩ Lương xuân Nhị. Điều này hoàn toàn logic bởi một loạt những tranh vẽ về Nhât Bản của họa sĩ Lương xuân Nhị đều ra đời trong khoảng thời gian này, như bức Phổ cổ, ảnh trái bên dưới, được họa sĩ chú thích rõ ràng vẽ vào năm 1943. Ngoài ra nếu tinh ý, bạn đọc khi thăm quan phòng triển lãm của bảo tàng này, sẽ thấy ngay cạnh cô gái Nhật của hs LX Nhị, là một cô gái Nhật vẽ chì mầu của hs Nam Sơn, được hs chú thích khá cẩn thận “tháng 8 năm 1943”. Điều này càng nói lên rằng hai bức tranh có liên hệ với nhau, được ra đời trong cùng một khoảng thời gian khi mà cả hai họa sĩ đi Nhật.

Tranh trái, phong cảnh Nhật bản vẽ bởi họa sĩ Nam sơn năm 1943, có kí tên và không đề ngày tháng. Nhưng có thể dễ dàng dự đoán được khoảng thời gian vẽ tranh là tháng 6-7-8 năm 1943. Tranh phải, phố cổ của họa sĩ Lương xuân Nhị, kí và đề năm sáng tác 1943, được vẽ vào cùng thời điểm của bức tranh bên phải của họa sĩ Nam Sơn.

Cũng như bức “Thiếu nữ Nhật bản” của Lương xuân Nhị, bức tranh phong cảnh trên đây của họa sĩ Nam Sơn chỉ được kí và không đề năm sáng tác. Tuy vậy dựa vào sự kiện trên chúng ta có thể dễ dàng suy luận ra bức tranh này chỉ có thể được vẽ vào năm 1943, cụ thể là vào khoảng tháng 6-7-8 năm 1943, khoảng thời gian họa sĩ tham quan Nhật bản.

Anthony Nguyen

NewYork, 25 – 8 – 2018,

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.