Sáng ngày 28.10.2015, Bảo tàng Lịch sử Quốc gia (Hoàn Kiếm, Hà Nội) đã khai mạc triển lãm chuyên đề “Linh vật Việt Nam”.
Triển lãm giới thiệu 27 linh vật Việt Nam với các loại hình tượng tiêu biểu như: chim lạc, rồng, kỳ lân, rùa, phượng, long mã, tích tà, tiêu đổ, thao thiết, bổ lao, si vẫn…
Theo đại diện Bảo tàng, trưng bày chuyên đề nhằm giúp công chúng khám phá, tìm hiểu và nhận thức sâu sắc hơn về sự phong phú, đa dạng và độc đáo của linh vật Việt Nam, cũng như diễn biến phát triển, đặc điểm tạo hình, phong cách nghệ thuật… Qua đó khơi gợi niềm tự hào về bản sắc văn hóa Việt Nam, nâng cao ý thức văn hóa dân tộc trong việc sử dụng các biểu tượng văn hóa.
Đặc biệt, nhiều linh vật quý tầm cỡ bảo vật quốc gia như tượng rồng vàng thời Nguyễn, tượng rồng trên ấn vàng “Đại nam hiệp kỷ lịch chi bảo”… cũng được trưng bày.
Triển lãm sẽ kéo dài đến tháng 2 năm 2016.
Hình chim lạc trên trống đồng Đông Sơn, khoảng 2.000 – 2.500 năm trước, phát hiện tại Thọ Vực, Ứng Hòa, Hà Nội. Chim lạc là vật tổ của cư dân Đông Sơn trong buổi đầu dựng nước Văn Lang – Âu Lạc, gắn với huyền thoại về nguồn gốc dân tộc qua tín ngưỡng thờ vật Tổ.
Hình giao long trang trí trên giáo đồng, thuộc văn hóa Đông Sơn, cách đây 2.000 – 2.500 năm. Giao long được cách điệu từ cá sấu, là vật Tổ biểu trưng cho sức mạnh của cư dân Đông Sơn trong buổi đầu dựng nước Văn Lang – Âu Lạc.
Hình giao long trang trí trên tấm che ngực bằng đồng, thời kỳ Đông Sơn.
Hình rồng chạm trên đổ cửa bằng đá thời Lý, niên hiệu Long Thụy Thái Bình thứ 4 (1057), chùa Phật Tích, Tiên Du, Bắc Ninh.
Hình rồng trang trí trên đĩa gốm hoa lam thời Lê Sơ, thế kỷ 15. Hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam.
Tượng rồng bằng vàng thời Nguyễn, thế kỷ 19-20, nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn.
Tượng rồng trên ấn “Đại Nam hiệp kỷ lịch chi bảo” bằng vàng, thời Nguyễn, niên hiệu Thiệu Trị 7 (1847), nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn.
Hình kỳ lân trang trí trên đĩa gốm nhiều màu thời Lê Sơ, thế kỷ 15. Hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam. Theo truyền thuyết, kỳ lân là loài vật có móng guốc, thân phủ vẩy cá, là biểu tượng cho lòng nhân từ, mỗi khi nó xuất hiện là điềm báo có thánh nhân, minh quân ra đời. Hình tượng này phổ biến từ thời Lê sơ (thế kỷ 15), khi Nho giáo phát triển đến đỉnh cao.
Hình kỳ lân móng rồng trên hũ gốm hoa lam thời Lê Sơ, thế kỷ 15. Hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam.
Tượng kỳ lân bằng gỗ dùng để trang trí kiến trúc thời Nguyễn, thế kỷ 19 – 20.
Tượng rùa trên ấn “Quốc mẫu chi bảo” làm bằng bạc và vàng, thời Nguyễn, niên hiệu Gia Long thứ 1 (1802), trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn. Rùa là con vật được linh hóa, biểu trưng cho sự bền vững trường tồn, thường được tạc trong thức đội bia đá, tháp Phật hoặc trang trí trên đồ vật.
Tượng long mã bằng đồng thời Nguyễn, thế kỷ 19 – 20.
Lá đề hình phượng bằng đất nung thời Lý, thế kỷ 11 – 13. Theo truyền thuyết, phượng là vua của các loài chim, mang nhiều đức tính, phẩm hạnh cao đẹp. Phượng chỉ xuất hiện vào thời thái bình, ẩn mình khi loạn lạc nên nó là biểu tượng cho thái bình, thịnh trị. Ngoài ra, phượng còn là hình ảnh tượng trưng cho phụ nữ quý tộc, hoàng gia thời phong kiến. Ở Việt Nam, hình tượng này xuất hiện trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật ở hầu hết các thời đại lịch sử.
Hình phượng trang trí trên đĩa gốm hoa lam thời Lê sơ, thế kỷ 15. Hiện vật tàu cổ Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam.
Cặp phượng chầu bằng gỗ, thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 – 18.
Hình phượng trang trí trên hộp trầu bằng vàng thời Nguyễn, niên hiệu Minh Mạng thứ 5 (1824), nằm trong bộ sưu tập hiện vật cung đình triều Nguyễn.
Phù điêu tiên cưỡi hạc bằng gỗ thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 – 18. Hạc vốn là linh vật của đạo Lão, tượng trưng cho sự thanh cao, thoát tục, trường sinh bất tử. Tuy nhiên, ở Việt Nam hạc trở thành biểu tượng của cá Phật giáo, Nho giáo… thường được mô tả đứng trên lưng rùa hoặc trong đề tài tiên cưỡi hạc ở đình làng.
Đèn hình tích tà bằng đồng, thế kỷ 1 – 3. Tích tà là linh vật huyền thoại có nguồn gốc Á Đông, hình thức giống như sư tử có cánh. Đây là linh vật trấn giữ mang ý nghĩa biểu tượng trừ tà, xua đuổi điều xấu, mang lại tốt lành.
Bồ lao trên quai chuông đồng của chùa Thanh Long (Thái Bình), thời Lê Trung Hưng, niên hiệu Cảnh Hưng 33 (1772). Theo truyền thuyết, bồ lao là động vật biển thường được thể hiện dưới dạng rồng hai đầu, thích âm thanh lớn, thích gầm rống, rất sợ cá kình, khi bị cá kình đuổi thì kêu rất to. Người xưa đúc chuông thường tạo hình quai bồ lao, dùi hình cá kình với mong muốn tiếng chuông kêu vang xa, do đó từ “bồ lao” cũng được dùng để chỉ tiếng chuông chùa.
Hình thao thiết đúc nổi trên tai thạp đồng, khoảng thế kỷ 2 TCN – 2 SCN. Theo truyền thuyết, thao thiết là con vật ham ăn vô độ, thậm chí có thể ăn cả cơ thể mình. Vì vậy, hình ảnh thao thiết chỉ là phần đầu với hai chân trước nhìn chính diện trông vừa dữ tợn, vừa uy nghi. Ban đầu, thao thiết được trang trí trên bộ đồ ăn để nhắc nhở phép lịch sự trong ăn uống. Về sau thao thiết xuất hiện trên nhiều loại vật dụng khác, tượng trưng cho sự no đủ, bền vững.
Tượng nghê chầu làm bằng gốm men trắng và lục dùng làm đồ thờ cúng (trái) và Bình rót có quai hình nghê làm bằng gốm men lam xám dùng để đựng nước, rượu cúng (phải) thời Mạc, thế kỷ 16.
Tượng sư tử/ nghê bằng sành, thế kỷ 18 – 19. Dạng tượng này thường được gắn trên đầu hai trụ biểu các công trình kiến trúc cổ với chức năng trấn giữ, canh gác.