Nhân đọc cuốn sách “Lãng du trong văn hoá Việt Nam” của nhà văn Hữu Ngọc có phần viết về hoạ sĩ Phạm Tăng, NTX xin trích đoạn lại để bạn đọc quan tâm đến hội hoạ Phạm Tăng có thêm một tư liệu quý.
Phạm tăng sinh năm 1924 ở Yên Mô (Ninh Bình), một làng quê giống như trăm nghìn làng quê khác ở đồng bằng sông Hồng. Những bụi tre xanh, cây đa bến nước, hàng cau, sân đình, tiếng chuông chùa ngân khi sẩm tối, hương bưởi đem xuân… biết bao những hình ảnh bình bị mà thân thương ấy sẽ quyện vào đường nét và màu sắc của anh. Anh học hội hoạ và kiến trúc ở Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (Hà Nội). Mười lăm năm sau, lưu lạc sang châu Âu, anh đã đi sâu vào tất cả các môn dạy ở Viện Mỹ thuật Rome (Accademia de belie arti di Roma). Anh tốt nghiệp môn hội hoạ và môn trang trí, sau đó theo học thêm môn điêu khắc và môn nghệ thuật trần thiết sân khấu. Năm 1967, tài năng của anh được công nhận với giải nhất Unesco (tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc) ngay tại đất Thánh của hội hoạ là Roma.
Một đặc trưng của sáng tác Phạm Tăng là tổng hợp những điểm đối lập để đạt tới một tổng thể không thể chia cắt được.
Hội hoạ phương Tây đi vào ngõ cụt với sự đối lập giữa tượng hình và trừu tượng từ khi xuất hiện xã hội công nghiệp kĩ trị. Phạm Tăng đã giải quyết mâu thuẫn ấy bằng cách hợp nhất mộng và thực, trang trí và hiện thực, cụ thể và trừu tượng, Đông và Tây, con người và thiên nhiên, vi mô và vĩ mô.
Đối với Phạm Tăng, vũ trụ là nhịp điệu, nhịp điêu là phương thức của vận động. Mây trên trời, sóng đại dương, hàng muôn triệu thiên hà, ngày và đêm, bốn mùa trong năm, vân ngón tay, thái dương hệ, tiếng chim ca, tế bào chiếc lá, cấu trúc các tinh thể- từ cái vô cùng bé đến cái vô cùng lớn, tất cả vật chất đều vận động theo nhịp điệu. Bằng một sự khổ luyện mĩ cảm, người nghệ sĩ cố gắng thâm nhập nội tâm của vật chất để tái tạo nhịp điêu của vũ trụ.
Tác phẩm của Phạm Tăng là những tấm gỗ lắp vào nhau, vẽ sơn dầu mà sử dụng kĩ thuật sơn mài (gắn vỏ trứng). Thoạt nhìn như một bức tranh ghép gợi lên nhiều hình ảnh trừu tượng mà lại tượng hình : Muôn đám hoa tươi nhiều màu sắc, hình ảnh nhìn qua kính vạn hoa hay kính hiển vi điện tử, tinh vân chuyển quay – mây trôi hay sóng gợn… tác phẩm toát ra một không khí thanh bình, sự thanh thản của tâm hồn. Xem ra rồi lại xem gần : cần một kính lúp mà soi vài xentimét vuông thì óc tưởng tượng của người xem tranh lại phát hiện ra không biết bao nhiêu hình ảnh hay vũ trụ vi mô.
Tôi tìm kiếm, Phạm Tăng nói, sự cảm thông không những với thiên nhiên mà cả với con người. Tôi muốn nghệ sĩ và người xem chỉ là một. Do đó, các bức hoạ cuả tôi không có khung, tôi không « đóng » mà muốn « mở » cho mọi người nhập vào tranh, ra vào lúc nào tuỳ hứng, tuỳ mình thông cảm mà tạo vũ trụ của mình qua toàn bộ hoặc một chi tiết của tranh.
Phạm Tăng không quan tâm đến những tranh luận về lí thuyết trường nọ phái kia. Đối với anh, hiện thực, mãng mạn, trừu tượng đều chấp nhận được tất, miễn là bức tranh đẹp. Đẹp là tiêu chuẩn.
Tôi không thấy trong tranh Phạm Tăng những lời thơ vang vọng bi kịch cuộc đời anh như :
Lạnh đâu thấm nhập vào phòng ?
Không đâu ! Lạnh ở trong lòng lanh ra !
Bên ngoài chỉ có sương sa
Bên trong giá buốt hơn là tuyết băng !
Dường như từ thơ sang hoạ, chỗ đau thương đã được tôi luyện và tan biến vào trong cái siêu hình :
Hương tan trong gió mình quên chính mình
Không Danh, Tướng, chắc Sắc, Hình
Trước sau không có, có Mình không tên
Có những bức tranh nom như tinh vân của anh là những bài ca vũ trụ thanh thản :
Siêu nhiên tịch mịch, u huyền
Xác thân hoà nhập tâm Thiền trống không
Khiến tôi nghĩ đến « Hai vô Cực » của Pascal
Trích đoạn trong sách: Lãng du trong văn hoá Việt Nam, tập 3, Hội hoạ: tranh hiện thực hay tranh trừu tượng, tác giả Hữu Ngọc.